Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 14/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 14/2023/DS-PT NGÀY 13/02/2023 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 13 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 156/2022/TLPT-DS ngày 01 tháng 10 năm 2022 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất; tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ thẩm số 15/2021/DS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 591/2023/QĐ-PT ngày 27 tháng 01 năm 2023; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

+ Bà Mai Thị T, sinh năm 1940; địa chỉ: thôn 4, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Vắng.

+ Ông Nguyễn Công B, sinh năm 1976; địa chỉ: thôn 5, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

Đại diện theo ủy quyền của bà Mai Thị T, ông Nguyễn Công B:

1. Ông Trần Văn L; địa chỉ:, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Vắng.

2. Ông Trần M T; địa chỉ: huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Hữu H, sinh năm 1965; địa chỉ: huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Vắng.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Đặng Thanh Q, sinh năm 1991; địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1975; địa chỉ: thôn 5, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Vắng.

Đại diện theo ủy quyền của bà H: ông Nguyễn Công B, sinh năm 1976;

địa chỉ: thôn 5, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

+ Bà Nguyễn Thị Kham L, sinh năm 1969; chị Trần Thị Cẩm T, sinh năm 1987; chị Trần Thị Tâm D, sinh năm 1995; anh Trần Đình T, sinh năm 1992; anh Trần Quốc Thiên F, sinh năm 2001.

Cùng địa chỉ: huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Tất cả đều vắng.

+ Bà Trần Thị Mỹ T, sinh năm 1990; địa chỉ: (Nhật Bản). Vắng.

Đại diện theo ủy quyền của bà Trần Thị Mỹ T: Bà Đặng Thanh Q Địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk (Theo văn bản ủy quyền ngày 02/7/2021). Có mặt.

+ Ông Trần Mạnh H (Trần Văn H) và bà Trần Thị Đ, địa chỉ: thôn 5, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Vắng.

+ Ông Trần Duy N. Địa chỉ: thôn 5, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Vắng.

+ Văn phòng công chứng Đ. Địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk. Vắng.

+ Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Vắng.

Do có kháng cáo của bà Mai Thị T và ông Nguyễn Công B và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Mai Thị T và người được ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Năm 1986 vợ chồng bà Mai Thị T, ông Hoàng Khắc M tự khai hoang diện tích đất khoảng 6.000m2 tại làng B (nay là thôn 5, xã E, huyện C), sau đó trồng cây cà phê, cây ăn trái và hoa màu ổn định cho đến năm 2019 không tranh chấp với ai.

Ngày 10/9/1991 gia đình bà T làm đơn yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSD) và được UBND huyện K cấp GCNQSD số A 184155, diện tích đất 4.000m2 mang tên ông Hoàng Khắc M (chồng bà Mai Thị T). Hiện nay bà Mai Thị T đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CT 405735 ngày 09/4/2020 đối với thửa 5133 do bà T nhận thừa kế của ông Hoàng Khắc M. Diện tích đất 2.000m2 còn lại là đất sình, không trồng cây được nên chưa được đo đạc cấp Giấy chứng nhận.

Sau một thời gian cải tạo, đất có thể trồng cấy sử dụng được, đến năm 2018 gia đình bà T làm đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này. Trong quá trình làm hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì năm 2019 bà T mới biết diện tích 2.000m2 tự khai hoang từ năm 1986 và đang sử dụng (theo kết quả thẩm định tại chỗ là 1.120m2) đã được UBND huyện K cấp GCNQSDĐ số R 405829 ngày 30/8/2000 mang tên hộ ông Trần Hữu H đối với thửa đất 5897, tờ bản đồ số 26 xã E nhưng từ trước đến nay ông H không hề sử dụng đất.

- Ông Nguyễn Công B là đồng nguyên đơn trình bày:

Ngày 01/10/2006, ông Trần Văn H và bà Trần Thị Đ chuyển nhượng cho ông B diện tích đất 4.000m2 thuộc thôn 5, xã E, huyện C. Đất có tứ cận: Phía đông giáp đường, Phía tây giáp bà T, Phía nam giáp ông Mai Văn T, Phía bắc giáp Trường mẫu giáo. Nguồn gốc đất là của ông Nguyễn Quang C khai hoang, sau đó ông C cho ông H. Thời điểm chuyển nhượng thì giấy tờ vẫn đứng tên của ông Nguyễn Quang C.

Ông H đã bàn giao đất cho ông B sử dụng và nói rõ 3.000m2 đất thuộc thửa đất 6353 tờ bản đồ số 26 đã có GCNQSDĐ (diện tích trong Giấy chứng nhận là 2.986m2) mang tên ông Nguyễn Quang C, còn 1.000m2 đất phía sau chưa có Giấy chứng nhận, sau này ông B tự lo liệu. Do đó, mọi thủ tục sang nhượng thửa đất 6353 tờ bản đồ số 26 do ông C ký với ông B.

Ngày 11/02/2015, UBND huyện C cấp GCNQSDĐ số BN 028405, diện tích 2.986m2, thửa đất số 6353, tờ bản đồ số 26, tại xã E, huyện C mang tên ông Nguyễn Công B.

Quá trình sử dụng đất từ năm 2006 không xảy ra tranh chấp với ai. Tuy nhiên đến tháng 4/2019 thì ông H yêu cầu gia đình ông B trả lại diện tích đất 1.000m2 đất còn lại ông B nhận chuyển nhượng của ông H nhưng chưa được cấp Giấy chứng nhận. Quá trình giải quyết tranh chấp tại xã thì ông B mới biết diện tích này đã được UBND huyện K cấp GCNQSD đất số R 405829 ngày 30/8/2000 mang tên hộ ông Trần Hữu H thửa đất 5897, tờ bản đồ số 26 xã E.

Thực tế gia đình ông B sử dụng đủ diện tích 4.106m2, tuy nhiên phần diện tích theo kết quả thẩm định tại chỗ là 1.120m2 gia đình ông B chưa được cấp Giấy chứng nhận lại được cấp cho ông H trong khi ông H chưa bao giờ sử dụng đất.

Đến cuối năm 2019, nguyên đơn biết được ngày 10/9/2019 vợ chồng ông Trần Hữu H, bà Trần Thị Tâm D lập hợp đồng chuyển nhượng diện tích đang tranh chấp cho ông Trần Duy N tại văn phòng công chứng Đ. Việc chuyển nhượng chỉ được thực hiện trên giấy tờ chứ chưa bàn giao đất.

Hiện nay nguyên đơn bà Mai Thị T và ông Nguyễn Công B yêu cầu Tòa án giải quyết:

1/ Yêu cầu hủy bỏ giá trị pháp lý GCNQSDĐ số R 405829 do UBND huyện K cấp ngày 30/8/2000 mang tên hộ ông Trần Hữu H đối với thửa đất 5897, tờ bản đồ số 26.

2/ Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Mạnh H, bà Trần Thị Đ với ông Nguyễn Công B lập ngày 01/10/2006. Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 1.120m2 trong thửa 5897, tờ bản đồ số 26 xã E cho ông Nguyễn Công B (có vị trí, tứ cận như biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án).

3/ Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 1.125,6m2 trong thửa 5897, tờ bản đồ số 26 xã E cho hộ bà Mai Thị T (có vị trí, tứ cận như biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ của Tòa án).

4/ Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Hữu H, bà Nguyễn Thị Kham L, bà Trần Thị Tâm D với ông Trần Duy N được Văn phòng công chứng Đ chứng nhận ngày 10/9/2019.

* Quá trình tố tụng, bị đơn ông Trần Hữu H và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn trình bày:

Khoảng năm 1997, ông Trần Hữu H có khai hoang, sử dụng một thửa đất tại xã E, huyện K (nay là huyện C), diện tích khoảng 3.000m2 để trồng lúa. Đến ngày 30/8/2000, ông Trần Hữu H được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R405829 cho thửa đất nêu trên, thông tin: thửa đất số 5897, tờ bản đồ 26, diện tích: 3.480m2; mục đích sử dụng: lúa nước, thời hạn sử dụng đến năm 2013. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận ông H tiếp tục sử dụng đất để trồng lúa.

Năm 2004, ông Trần Mạnh H là người sinh sống cùng địa phương, canh tác lúa nước gần thửa đất của ông H có xin mượn ông H thửa đất số 5897 để canh tác. Theo thỏa thuận, ông H cho ông H mượn đất, mỗi năm ông H có trách nhiệm đưa cho ông H 1/3 sản lượng cây trồng thu hoạch được trên diện tích đất mượn, khi nào ông H lấy lại đất thì sẽ báo ông H biết trước 02 tháng. Đầu năm 2017, vì ông H có nhu cầu chuyển nhượng thửa đất trên nên đã thông báo cho ông H trả lại đất. Ngày 06/11/2017, ông H viết giấy tay chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Trần Duy N. Đến ngày 10/9/2019, gia đình ông Trần Hữu H và ông Trần Duy N ký kết Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có công chứng tại Văn phòng công chứng Đ để thực hiện thủ tục sang tên theo quy định của pháp luật.

Về yêu cầu khởi kiện của bà Mai Thị T, ông Nguyễn Công B: ông Trần Hữu H không đồng ý vì diện tích đất mà bà Mai Thị T, ông Nguyễn Công B đang khởi kiện thuộc thửa đất số 5897, tờ bản đồ 26 đã được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số R405829 cho ông H. Bà T, ông B sử dụng diện tích đất trên là đang có hành vi lấn chiếm đất của ông Trần Hữu H. Hơn nữa, thửa đất số 5897 ông H đã ký kết Hợp đồng chuyển nhượng cho ông Trần Duy N, ông H đã giao đất cho ông N và nhận tiền chuyển nhượng của ông N sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng tại văn phòng công chứng.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Duy N trình bày:

Do có nhu cầu sử dụng đất nên ông N có nhận chuyển nhượng của gia đình ông Trần Hữu H diện tích 3.480m2, thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26, tọa lạc tại xã E, huyện C với giá 70.000.000 đồng. Ông N đã thanh toán đầy đủ số tiền trên và gia đình ông H đã bàn giao đất cho ông N. Tuy nhiên, khi đến nhận đất để sử dụng thì thấy gia đình ông B và gia đình bà T đang quản lý sử dụng đất nên xảy ra tranh chấp. Nay các đồng nguyên đơn đề nghị hủy bỏ giá trị pháp lý của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Trần Hữu H, bà Nguyễn Thị Kham L, bà Trần Thị Tâm D với ông N vào ngày 10/9/2019 thì ông N không đồng ý vì việc ông N nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên là đúng quy định của pháp luật. Ông N không đề nghị Tòa án giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cũng không làm đơn khởi kiện độc lập trong vụ án này.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn H (Trần Mạnh H) trình bày:

Ông H không có mối quan hệ họ hàng gì với các bên đương sự, chỉ là hàng xóm cùng thôn, còn ông Trần Duy N là con trai của ông H.

Khoảng năm 1995 ông H nhận chuyển nhượng của ông Nguyễn Quang C diện tích 04 sào đất ruộng để canh tác, đất chưa có bìa đỏ, chỉ có trích lục. Sau đó ông H cho UBND E 01 sào để làm trường học, còn 03 sào ông H bán cho ông Nguyễn Công B vào năm 2006 đồng thời giao trích lục cho ông B để làm bìa đỏ.

Khi ông H sử dụng 04 sào đất trên, bên cạnh có 3,8 sào đất ruộng của gia đình ông Trần Hữu H canh tác không hiệu quả nên ông H hỏi thuê luôn diện tích 3,8 sào đất của ông H (chính là thửa 5897 tờ bản đồ số 26). Các bên lập hợp đồng thuê do ông H giữ, thỏa thuận mỗi năm ông H trả cho ông H 1/3 hoa lợi trên đất. Khi nào ông H muốn lấy lại đất thì thông báo trước cho ông H 02 tháng. Nội dung này chỉ có ông H và ông H biết.

Sau khi chuyển nhượng 03 sào đất cho ông B thì ông H cũng ít sử dụng thửa đất 5897 (canh tác 01-02 năm sau đó rồi bỏ không sử dụng nữa). Năm 2017 ông H thông báo với ông H về việc lấy lại đất thì ông H đồng ý. Lúc này các bên có đến đất để xem xét, giao trả đất thì thấy có cây trồng trên đất (không biết ai trồng) nên ông H bỏ về.

Sau đó giữa ông B, bà T và ông H xảy ra tranh chấp. Xét thấy việc tranh chấp xảy ra giữa các bên ông H không có liên quan gì, diện tích đất các bên đang tranh chấp không nằm trong diện tích đất ông H chuyển nhượng cho ông B, đất ông cũng đã chuyển nhượng xong nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Việc chuyển nhượng thửa 5897 giữa ông N và ông H là thỏa thuận của các bên, ông H không biết và không có liên quan. Ông H từ chối tham gia tố tụng.

Tại Bản án sơ thẩm số 15/2022/DSST ngày 28 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk quyết định:

Căn cứ khoản 3, khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 147; Điều 220; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 117, 119 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 167, Điều 203 Luật đất đai năm 2013.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Công B về việc: Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tay) lập ngày 01/10/2006 giữa người chuyển nhượng là ông Trần Mạnh H, bà Trần Thị Đ và người nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công B và yêu cầu công nhận quyền sử dụng của ông Nguyễn Công B đối với diện tích 1.120m2 đất thuộc một phần thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26 có vị trí tứ cận như sau:

- Hướng Đông giáp đường đất dài 56m;

- Hướng Tây giáp phần đất còn lại của thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26, dài 56m;

- Hướng Nam giáp thửa đất số 5892, dài 20m;

- Hướng Bắc giáp thửa đất số 5114 (trước đây của ông Nguyễn Công B), dài 20m.

Đất tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị T về việc: Công nhận bà Mai Thị T có quyền sử dụng diện tích 1.125,6m2 đất thuộc một phần thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26 có vị trí tứ cận như sau:

-Hướng Đ giáp phần đất còn lại của thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26, dài 56m;

-Hướng Tây giáp diện tích đất còn lại của thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26, dài 56m;

-Hướng Nam giáp thửa đất số 5892, dài 20,10m;

-Hướng Bắc giáp thửa đất số 5113 của bà Mai Thị T, dài 20,1m. Đất tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.

[3] Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Công B và bà Mai Thị T về việc hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Công chứng ngày 10/9/2019 tại Văn phòng công chứng Đ giữa những người chuyển nhượng là ông Trần Hữu H, bà Nguyễn Thị Kham L, bà Trần Thị Tâm D và người nhận chuyển nhượng là ông Trần Duy N.

[4] Ông Trần Duy N có nghĩa vụ trả cho bà Mai Thị T 21.478.000 đồng; trả cho vợ chồng ông Nguyễn Công B 4.245.000 đồng.

Ông Nguyễn Công B và bà Mai Thị T được quyền tháo dỡ trụ bê tông và dây kẽm gai trên đất.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

- Ngày 11/8/2022, bà Mai Thị T, ông Nguyễn Công B kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông, bà.

- Ngày 11/8/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 897/QĐKNPT-VKS-DS, kháng nghị Bản án sơ thẩm số 15/2022/DSST ngày 28 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đề nghị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông B, bà T và sửa phần quyết định buộc ông Trần Duy N có nghĩa vụ trả cho bà Mai Thị T 21.478.000 đồng; trả cho vợ chồng ông Nguyễn Công B 4.245.000 đồng, vì giải quyết vượt quá phạm vi khởi kiện của đương sự, vi phạm điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

- Về việc chấp hành pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk và kháng cáo của bà Mai Thị T, ông Nguyễn Công B, sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh luận; Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Xét kháng cáo của bà Mai Thị T, ông Nguyễn Công B và kháng nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk; nhận thấy:

[1.1] Về nguồn gốc đất đang tranh chấp:

Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ do TAND tỉnh Đắk Lắk lập ngày 16/6/2022 thì diện tích đất có tranh chấp giữa ông Nguyễn Công B và ông Trần Hữu H là 1.120m2; Diện tích đất có tranh chấp giữa bà Mai Thị T và ông Trần Hữu H là 1.125,6m2. Tổng diện tích đất tranh chấp là 2.245,6m2. Hai thửa đất tranh chấp này thuộc một phần thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26 tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk đã được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2000 cho hộ ông Trần Hữu H với diện tích 3.480m2.

- Đối với ông Nguyễn Công B: ông B cho rằng toàn bộ diện tích đất của ông B (gồm khoảng 3.000m2 đất thuộc thửa đất 6353 tờ bản đồ số 26 đã có GCNQSDĐ và khoảng 1.000m2 đất đang tranh chấp) có nguồn gốc là của ông Nguyễn Quang C khai hoang, sau đó cho ông Trần Mạnh H. Đến năm 2006 thì vợ chồng ông Trần Mạnh H chuyển nhượng lại cho ông B. Tuy nhiên ông Trần Mạnh H không thừa nhận có việc chuyển nhượng diện tích đất này, mà chỉ chuyển nhượng diện tích đất đã được đo vẽ, có trích lục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng. Lời khai ông Nguyễn Quang C cũng xác nhận cho ông H diện tích đất đã có giấy tờ, diện tích đất còn lại thì cho đội du kích. Mặt khác, tại thời điểm ông H viết giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông B thì ông Trần Hữu H đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất đang tranh chấp.

- Đối với bà Mai Thị T: Bà T cho rằng đất đang tranh chấp là do gia đình bà khai hoang, nhưng không có tài liệu chứng cứ nào chứng minh việc khai hoang và bà cũng không kê khai đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Mặt khác vào năm 1991, khi làm đơn yêu cầu cấp GCNQSD đất đối với diện tích đất liền kề, gia đình bà cũng chỉ kê khai 4.000m2 (do ông Hoàng Khắc M là chồng bà kê khai) và đến năm 2020 bà được cấp GCNQSD đất đối với diện tích 4.000m2 đã kê khai, đăng ký nhưng cũng không có khiếu nại gì.

- Đồng thời, theo biên bản định giá tài sản ngày 24/7/2020 (BL 75-76) xác định các loại cây trồng của nguyên đơn trên diện tích đất tranh chấp cũng chỉ được nguyên đơn trồng sau khi bị đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

[1.2]. Mặt khác, tại Biên bản lấy lời khai ông Nguyễn Thái Bình (nguyên Đội trưởng đội du kích xã) ngày 24/8/2020 (BL 131), ông Bình trình bày: Khoản năm 1990, ông có nhận khoản 3.500m2 đất có vị trí tại thôn 5, xã E (hiện nay ông B, bà T tranh chấp với ông H); trong đó ông Nguyễn Quang C cho khoảng 1.000m2, bà T cũng cho khoảng 1.000m2, diện tích còn lại là do chính quyền địa phương bàn giao để trồng lúa phục vụ đời sống của Đội du kích, toàn bộ diện tích đất đó chưa cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đến năm 2003, ông nghỉ làm du kích thì diện tích đất đó ai sử dụng tiếp theo thì ông không biết. Đồng thời tại Biên bản làm việc của UBND xã E với các ông bà Mai Thị T, Trần Hữu H và Trần Duy N (BL 13-14), ông H trình bày: Năm 2000, ông có đề nghị UBND huyện K cấp cho một thửa đất để canh tác và đã được UBND huyện K cấp diện tích đất trên.

Như vậy có cơ sở xác định diện tích đất tranh chấp nguyên trước đây là của Đội du kích xã canh tác là thuộc quyền quản lý của xã; khi Đội du kích không canh tác nữa thì UBND huyện K cấp cho ông H canh tác là đúng thẩm quyền và đúng quy định pháp luật. Do đó, án sơ thẩm bác yêu cầu của ông Nguyễn Công B về việc công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tay) giữa vợ chồng ông H và ông B đối với phần diện tích 1.120m2 đất đang tranh chấp; bác yêu cầu của bà Mai Thị T về việc yêu cầu công nhận diện tích đất 1.125,6m2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bà là có căn cứ.

[1.3]. Đối với yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Công chứng ngày 10/9/2019 tại Văn phòng Công chứng Đ, giữa người chuyển nhượng là vợ chồng ông Trần Hữu H, bà Nguyễn Thị Kham L cùng các con với người nhận chuyển nhượng là anh Trần Duy N; xét thấy Ông Trần Hữu H là người đã được UBND huyện K cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Công chứng đúng quy định của pháp luật; Khi giải quyết vụ án các con của ông H không có ý kiến phản đối nên việc chuyển nhượng nêu trên là hợp pháp. Do đó, án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu này của đồng nguyên đơn là đúng pháp luật.

[1.4]. Về yêu cầu hủy GCNQSD đất: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về công nhận quyền sử dụng đất đang tranh chấp không được chấp nhận nên án sơ thẩm không tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện K cấp cho hộ ông Trần Hữu H tại thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26 là đúng quy định pháp luật.

[1.5]. Đối với tài sản trên đất: Ông B, bà T khởi kiện yêu cầu công nhận quyền sử dụng diện tích đất tranh chấp là yêu cầu lớn hơn quyền về tài sản của họ có trên diện tích đất. Tuy nhiên yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận; đồng thời theo lời trình bày của ông Trần Duy N thì khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông H, các bên chỉ thỏa thuận về giá trị quyền sử dụng đất. Diện tích đất này ông H đã giao cho ông N không quản lý, sử dụng nên án sơ thẩm tuyên buộc ông N có nghĩa vụ thanh toán giá trị cây trồng trên đất cho các nguyên đơn là phù hợp, không vượt quá yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn.

Từ phân tích và nhận định trên, xét thấy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà Mai Thị T, ông Nguyễn Công B và kháng nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắklắk; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[2]. Những vấn đề khác có liên quan trong vụ án nhưng không có kháng cáo, kháng nghị:

- Án sơ thẩm nhận định không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông B về việc công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tay) giữa vợ chồng ông H và ông B đối với phần diện tích 1.120m2 đất đang tranh chấp; tuy nhiên phần quyết định của bản án ghi: “Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Công B về việc: Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tay) lập ngày 01/10/2006 giữa người chuyển nhượng là ông Trần Mạnh H, bà Trần Thị Đ và người nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công B và yêu cầu công nhận quyền sử dụng của ông Nguyễn Công B đối với diện tích 1.120m2 đất thuộc một phần thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26 là không rõ ràng, vì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tay) lập ngày 01/10/2006 giữa người chuyển nhượng là ông Trần Mạnh H, bà Trần Thị Đ và người nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công B, trong đó có cả phần diện tích đất được chuyển nhượng hợp pháp; nên chỉ tuyên bố không chấp nhận đối với phần diện tích đất tranh chấp mới chính xác.

- Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ do TAND tỉnh Đắklắk lập ngày 16/6/2022 thì trên diện tích đất có tranh chấp còn có tài sản khác của ông B, bà Mai là hàng rào trụ bê tông và dây kẽm gai. Lẽ ra án sơ thẩm phải tuyên buộc ông B, bà Mai phải tháo dỡ hàng rào trụ bê tông và dây kẽm gai để trả lại diện tích đất cho ông Trần Duy N, nhưng lại tuyên: “Ông Nguyễn Công B và bà Mai Thị T được quyền tháo dỡ trụ bê tông và dây kẽm gai trên đất” sẽ khó khăn trong quá trình thi hành án.

Do đó, hội đồng xét xử phúc thẩm chỉnh sửa lại cho phù hợp.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên ông Nguyễn Công B phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Mai Thị T,vì là người cao tuổi.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Công B, bà Mai Thị T và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắklắk; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ khoản 3, khoản 9 Điều 26, Điều 34, Điều 147; Điều 220; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 117, 119 Bộ luật dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 167, Điều 203 Luật đất đai năm 2013.

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

T xử:

1.1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Công B về việc: Công nhận Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (viết tay) lập ngày 01/10/2006 giữa người chuyển nhượng là ông Trần Mạnh H, bà Trần Thị Đ và người nhận chuyển nhượng là ông Nguyễn Công B đối phần diện tích 1.120m2 đang tranh chấp và yêu cầu công nhận quyền sử dụng của ông Nguyễn Công B đối với diện tích 1.120m2 đất thuộc một phần thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26 có vị trí tứ cận như sau:

- Hướng Đông giáp đường đất dài 56m;

- Hướng Tây giáp phần đất còn lại của thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26, dài 56m;

- Hướng Nam giáp thửa đất số 5892, dài 20m;

- Hướng Bắc giáp thửa đất số 5114 (trước đây của ông Nguyễn Công B), dài 20m.

Đất tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắklắk.

1.2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị T về việc: Công nhận bà Mai Thị T có quyền sử dụng diện tích 1.125,6m2 đất thuộc một phần thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26 có vị trí tứ cận như sau:

- Hướng Đông giáp phần đất còn lại của thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26, dài 56m;

-Hướng Tây giáp diện tích đất còn lại của thửa đất số 5897, tờ bản đồ số 26, dài 56m;

-Hướng Nam giáp thửa đất số 5892, dài 20,10m;

-Hướng Bắc giáp thửa đất số 5113 của bà Mai Thị T, dài 20,1m. Đất tọa lạc tại xã E, huyện C, tỉnh Đắklắk.

1.3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Công B và bà Mai Thị T về việc yêu cầu hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Công chứng ngày 10/9/2019 tại Văn phòng công chứng Đ giữa những người chuyển nhượng là ông Trần Hữu H, bà Nguyễn Thị Kham L, bà Trần Thị Tâm D và người nhận chuyển nhượng là ông Trần Duy N.

1.4. Ông Trần Duy N có nghĩa vụ trả cho bà Mai Thị T 21.478.000 đồng; trả cho vợ chồng ông Nguyễn Công B 4.245.000 đồng.

1.5. Buộc ông Nguyễn Công B và bà Mai Thị T tháo dỡ trụ bê tông và dây kẽm gai trên diện tích đất tranh chấp để trả lại diện tích đất cho ông Trần Duy N quản lý, sử dụng.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị và được thi hành theo Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2022/DS-ST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắklắk.

3. Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Công B phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Đã nộp đủ tại các Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0021867 ngày 17/8/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắklắk .

Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho bà Mai Thị T, vì là người cao tuổi.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 14/2023/DS-PT

Số hiệu:14/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về