Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 14 tháng 4 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 02/2022/TLST - HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 về việc “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11/3/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 28/3/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1978 (có mặt).

Bị đơn: Ông Ngô T, sinh năm 1969 (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: Thôn H, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Nguyễn Thị N trình bày:

Về hôn nhân: Bà với ông Ngô T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau 1996, có đến Ủy ban nhân dân xã P, huyện N làm thủ đăng ký kết hôn vào năm 2004.

Qúa trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, nhưng đến năm 2019 thì giữa bà với ông T xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông T thường xuyên nghi ngờ ghen tuông bà vô cớ, rồi ông T đi nhậu nhẹt về kiếm chuyện chửi mắng, đánh đập đuổi bà và các con ra khỏi nhà, bà đã nhiều lần khuyên nhủ nhưng ông T không nghe mà vẫn tính nào tật đó, không chịu sửa đổi, cứ mỗi lần đi nhậu về là kiếm chuyện chửi mắng, đánh đập bà. Hiện bà với ông Ngô T đã sống ly thân với nhau từ cuối năm 2021 cho đến nay không quan tâm đến nhau.

Nay bà thấy không còn tình cảm với ông T, nên yêu cầu được ly hôn với ông Ngô T.

Về con chung: Bà với ông Ngô T sống với nhau có 03 con chung tên Ngô Văn T1, sinh năm 1996, Ngô Thị T2, sinh năm 1998 và Ngô Thị Yến N1, sinh ngày 30-12-2007. Đối với 02 con chung Ngô Văn T1 và Ngô Thị T2 đã trưởng thành bà không yêu cầu giải quyết, còn đối với con chung Ngô Thị Yến N1 chưa trưởng thành bà yêu cầu được nuôi, bà không yêu cầu ông Ngô T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, Bị đơn ông Ngô T vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng:

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu ý kiến: Về thủ tục tố tụng: Thống nhất về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử (Hội đồng xét xử được viết tắt là HĐXX). Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX nghị án, đều đảm bảo đúng theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N. Cho bà Nguyễn Thị N được ly hôn với ông Ngô T, giao con chung tên Ngô Thị Yến N1, sinh ngày 30-12-2007 cho bà Nguyễn Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, ông Ngô T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Buộc bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án, HĐXX xác định: Quan hệ pháp luật là “Tranh chấp Ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Bị đơn hiện đang cư trú tại thôn H, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa hôm nay ông Ngô T vắng mặt không có lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông Ngô T.

[3]. Về nội dung vụ án:

[3.1]. Về quan hệ hôn nhân: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa xác định được bà Nguyễn Thị N và ông Ngô T kết hôn năm 1996, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện N theo giấy chứng nhận kết hôn số 198 ngày 20-5-2004. Do đó, hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị N và ông Ngô T là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bà Nguyễn Thị N vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn ông Ngô T, vì tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gay gắt, trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm nhau, tình cảm vợ chồng đã hết. Vì vậy, bà yêu cầu được ly hôn với ông Ngô T. Đối với bị đơn ông Ngô T dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ, các văn bản tố tụng nhiều lần theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng vẫn cố tình không đến. Bị đơn ông Ngô T vắng mặt xem như từ bỏ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, chứng tỏ yêu cầu khởi kiện ly hôn và lời khai của bà Nguyễn Thị N là có căn cứ. Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị N và ông Ngô T đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng đã hết, hiện đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị N là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2]. Về con chung: Bà Nguyễn Thị N trình bày bà với ông Ngô T sống với nhau có 03 con chung tên Ngô Văn T1, sinh năm 1996, Ngô Thị T2, sinh năm 1998 và Ngô Thị Yến N1, sinh ngày 30-12-2007. Đối với 02 con chung Ngô Văn T1 và Ngô Thị T2 đã trưởng thành bà không yêu cầu giải quyết, còn đối với con chung Ngô Thị Yến N1 chưa trưởng thành bà yêu cầu được nuôi, hiện con chung đang sống với bà Nguyễn Thị N. Bà Nguyễn Thị N yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Ngô Thị Yến N1. Xét về yêu cầu trực tiếp nuôi con của bà Nguyễn Thị N, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà Nguyễn Thị N yêu cầu được trực tiếp chăm sóc con chung cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung đã trên 07 tuổi, nguyện vọng được ở với mẹ, vì vậy phải tôn trọng nguyện vọng của con chung; nên giao con chung tên Ngô Thị Yến N1, sinh ngày 30-12-2007 cho bà Nguyễn Thị N được trực tiếp nuôi dưỡng, ông Ngô T không cấp dưỡng nuôi con chung do bà Nguyễn Thị N không yêu cầu, là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[3.3]. Về tài sản, nợ chung: Tự thỏa thuận, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[4]. Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

[5]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát huyện N tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, nuôi con” của nguyên đơn bà Nguyễn Thị N. Bà Nguyễn Thị N được ly hôn với ông Ngô T.

2. Về con chung: Giao con chung Ngô Thị Yến N1, sinh ngày 30-12-2007 cho Nguyễn Thị N là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. (Hiện con chung đang sống với bà Nguyễn Thị N).

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí Tòa án bà Nguyễn Thị N đã nộp theo biên lai thu tiền số 0002198 ngày 04-01-2022 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Bà Nguyễn Thị N đã nộp đủ án phí.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đối với bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

66
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về