Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 13/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHĨA LỘ, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 13/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 15 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 37/2022/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:16/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số:10/2022/QĐST- HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lương Thị B, sinh năm 1985 Địa chỉ: Bản A, xã K, huyện B, tỉnh Lào Cai.

“Vắng mặt có lý do”

2. Bị đơn: Anh Đồng Văn X, sinh năm 1975 Địa chỉ: Thôn N, xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái. “Vắng mặt không lý do”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai, nguyên đơn chị Lương Thị B trình bày: Chị và anh Đồng Văn X kết hôn trên cơ sở tự nguyện,có đăng ký kết hôn vào ngày 04/12/2013 tại UBND xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn chị về sống cùng với gia đình nhà chồng tại thôn N, xã Thạch Lương, thị xã Nghĩa Lộ. Vợ chồng chung sống được 8 năm thì nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là anh X nghiện ma túy, bạo lực gia đình, hai vợ chồng đã ly thân 5 năm. Nay chị B xác định không còn tình cảm đối với anh X nữa nên đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn.

Về con chung: Chị và anh X có 02 con chung là Đồng Minh T, sinh ngày 20/4/2012 và Đồng Thị Vi V, sinh ngày 27/6/2015. Chị B đề nghị giao cháu T cho anh X trực tiếp nuôi dưỡng, còn chị nuôi dưỡng cháu V, không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình chị B đã cung cấp tài liệu, chứng cứ gồm: Bản sao trích lục giấy chứng nhận kết hôn; bản sao giấy khai sinh của Đồng Minh T, Đồng Thị Vi Vi; bản sao giấy chứng minh nhân dân của Lương Thị B; xác nhận thông tin cư trú của Đồng Văn X; bản sao sổ hộ khẩu ghi tên chủ hộ Lương Văn L.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành giao các văn bản tố tụng cho anh X thời triệu tập anh X đến Tòa án làm việc nhưng anh X đều vắng mặt. Tòa án đã làm việc với gia đình ông Đồng Văn N là bố đẻ của anh X (sống cùng nhà với anh X) thì ông N cho biết anh X có nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án như Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo về phiên họp giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ, thông báo kết quả phiên họp công khai chứng cứ…, nhưng anh X cố tình không đến để giải quyết vụ án.

Tại biên bản xác minh thể hiện, chị B và anh X có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Quá trình chung sống đã xảy ra mâu thuẫn từ nhiều năm qua, nguyên nhân là do anh X nghiện chất ma túy, vợ chồng nhiều lần xảy ra xô sát. Từ năm 2020 họ đã sống ly thân, chị B đã chuyển về bên ngoại sinh sống. Nay chị B làm đơn xin ly hôn, nuôi con chung đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Chị Bích đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải.

* Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật là không thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đơn khởi kiện của chị Lương Thị B xử cho chị Lương Thị B được ly hôn với anh Đồng Văn X.

+ Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, xử giao cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Đồng Thị Vi V, sinh ngày 27/6/2015; giao cho anh X trực tiếp nuôi dưỡng con Đồng Minh T, sinh ngày 20/4/2012.Chị B không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con chung nên không đề cập giải quyết.

+ Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, phát biểu quan điểm của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Ngày 28/02/022 chị Lương Thị B có đơn khởi kiện xin ly hôn anh Đồng Văn X có hộ khẩu thường trú tại xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái. Căn cứ quy định tại Điều 28; Điều 35; Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ.

[2]. Về thủ tục tố tụng:Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng gồm: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2022/QĐXXST-HNGĐ, Giấy triệu tập, và Quyết định hoãn phiên tòa số:10/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31/5/2022, nhưng tại phiên tòa hôm nay anh X vẫn vắng mặt không có lý do, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt bị đơn do đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do thể hiện thái độ cố tình trốn tránh nghĩa vụ đối với nguyên đơn, vi phạm nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị Lương Thị B có đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lương Thị B và anh Đồng Văn X kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký ngày 04/12/2013 tại UBND xã T, thị xã N, tỉnh Yên Bái.Theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Tuy nhiên, trong quá trình chung sống thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh X nghiện ma túy, vợ chồng thường xảy ra xô sát, anh chị đã ly thân, từ năm 2020 không còn chung sống với nhau nữa, thể hiện hôn nhân của họ đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy yêu cầu xin ly hôn của chị B là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị B và anh X có 02 con chung là Đồng Minh T, sinh ngày 20/4/2012 và Đồng Thị Vi V, sinh ngày 27/6/2015. Xét thấy hiện nay cháu V đang do chị B trực tiếp nuôi dưỡng, còn cháu T đang ở cùng với anh X. Chị B xin được nuôi cháu V, để anh X nuôi cháu T ( nguyện vọng của cháu V xin được ở với mẹ, cháu T xin ở cùng với bố). Hội đồng xét xử thấy cần thiết tiếp tục giao cháu V cho chị Bích nuôi dưỡng, giao cháu T cho anh X nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế và đúng quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình. Do chị B không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị B phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ vào Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lường Thị B.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lương Thị B được ly hôn anh Đồng Văn X.

2. Về con chung: Xử giao cho chị Lương Thị B được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con là Đồng Thị Vi V, sinh ngày 27/6/2015. Anh Đồng Văn X trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con là Đồng Minh T, sinh ngày 20/4/2012 Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi cón có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Lương Thị B phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai số AA/2021/0001107 ngày 28/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã N; chị B đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Lương Thị B và anh Đồng Văn X có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 13/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Nghĩa Lộ - Yên Bái
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về