TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 73/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 284/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Kiều M, sinh năm: 1986;
Nơi cư trú: Tổ E, thôn ĐQ, xã XT, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt
- Bị đơn: Ông Nguyễn Đức M1, sinh năm: 1978;
Nơi cư trú: Tổ E, thôn ĐQ, xã XT, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều M trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Đức M1 đăng ký kết hôn năm 2013 tại Uỷ ban nhân dân xã BS, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Cuộc sống vợ chồng sau khi kết hôn hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do ông M1 ham mê cờ bạc dẫn đến nợ nần, gia đình hai bên và bà phải đứng ra trả nợ cho ông M1 nhiều lần, đồng thời khuyên nhủ ông M1 nhưng ông M1 không thay đổi. Vợ chồng ông bà đã không chung sống với nhau từ tháng 4/2022. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà và ông M1 được ly hôn để bà ổn định cuộc sống, chăm sóc và nuôi dạy hai con.
Về con chung: bà và ông M1 có 02 con chung tên Nguyễn Huỳnh Xuân N, sinh ngày 03/02/2013 và Nguyễn Huỳnh Phúc A, sinh ngày 12/12/2019. Từ khi ông bà không sống chung với nhau thì các con sống với bà, thỉnh thoảng ông M1 mới về thăm con. Bà đề nghị sau khi ly hôn được giao trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi, không yêu cầu ông M1 cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà M xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn M1 được tống đạt hợp lệ đến Toà án làm việc và tham gia hòa giải nhưng vắng mặt không có lý do nên không tiến hành hòa giải được.
Tại bản tự khai ngày 11/5/2022, cháu Nguyễn Huỳnh Xuân N có nguyện vọng được sống cùng mẹ.
Tòa án tiến hành xác minh nguyên nhân mâu thuẫn hôn nhân của Bà M và ông M1 nhưng chính quyền địa phương không nắm được.
Tại phiên tòa, nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án xác định quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, đương sự và thu thập chứng cứ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, Thư ký, Hội đồng xét xử chấp hành đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà M, cho Bà M và ông M1 được ly hôn. Giao hai con chung là Nguyễn Huỳnh Xuân N, sinh ngày 03/02/2013 và Nguyễn Huỳnh Phúc A, sinh ngày 12/12/2019 cho Bà M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc“Tranh chấp ly hôn” giữa nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều M và bị đơn Nguyễn Đức M1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Ông Nguyễn Đức M1 được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Bà M, ông M1 đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân là hợp pháp. Sau khi kết hôn, hai ông bà chung sống hạnh phúc, hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông M1 ham mê cờ bạc gây ra nợ nần, làm ảnh hưởng xấu đến gia đình và các con. Thực tế, hai ông bà đã không chung sống một thời gian. Nay, Bà M nhận thấy vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà và ông M1 được ly hôn.
Ông M1 được tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập đến Toà án làm việc, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, thể hiện không có thiện chí hàn gắn.
Hội đồng xét xử nhận thấy, mâu thuẫn hôn nhân của Bà M ông M1 đã trầm trọng, cả hai ông bà đều không thực hiện nghĩa vụ sống chung với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không còn tồn tại nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà M ly hôn với ông M1.
Về con chung: bà và ông M1 có 02 con chung tên Nguyễn Huỳnh Xuân N, sinh ngày 03/02/2013 và Nguyễn Huỳnh Phúc A, sinh ngày 12/12/2019. Bà M đề nghị sau khi ly hôn sẽ được giao trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi. Xét thấy, các con đang sống với Bà M, cháu Nghi cũng có nguyện vọng được sống cùng mẹ, do đó, Hội đồng xét xử giao con chung cho Bà M trực tiếp nuôi dưỡng để ổn định cuộc sống cũng như đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các con.
Bà M không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: không có.
[3] Về án phí: Bà M phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 và Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 55, 56, 57, 58 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Thị Kiều M. Bà Huỳnh Thị Kiều M và ông Nguyễn Đức M1 được ly hôn.
2. Về con chung: giao con chung là Nguyễn Huỳnh Xuân N, sinh ngày 03/02/2013 và Nguyễn Huỳnh Phúc A, sinh ngày 12/12/2019 cho bà Huỳnh Thị Kiều M trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.
Quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con; Quyền yêu cầu cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.
3. Về án phí: bà Huỳnh Thị Kiều M phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001792 ngày 11/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Huỳnh Thị Kiều M có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Ông Nguyễn Đức M1 vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 73/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 73/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về