Bản án về tranh chấp ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC – TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 169/2022/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm: 1985; Địa chỉ: Ấp K, xã L, huyện G, tỉnh A. (Có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Tấn L, sinh năm: 1985; Địa chỉ: Ấp K, xã L, huyện G, tỉnh A. (Vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị N: Bà Nguyễn Thị N yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Tấn L; về con chung, có 01 con chung tên là Huỳnh Thị Kim C, sinh ngày 02/01/2017. Bà N đồng ý giao con chung cho ông L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, bà N đồng ý cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 1.000.000 đồng; về tài sản chung, nợ chung bà N không yêu cầu giải quyết; về án phí, bà N đồng ý chịu toàn bộ án phí.

Yêu cầu, đề nghị của ông Huỳnh Tấn L: Ông L vắng mặt không có ý kiến Các tài liệu chứng cứ của vụ án:

Chứng cứ do bà Nguyễn Thị N cung cấp: Giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của bà N (bản sao); giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); 01 giấy khai sinh con chung (bản sao), bản tự khai, đơn xác nhận cư trú.

Chứng cứ do ông Huỳnh Tấn L cung cấp: Không có Các tình tiết của vụ án:

Bà N trình bày: Bà N và ông L đến với nhau do quen biết, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Lâm, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An vào năm 2015, theo giấy chứng nhận kết hôn số 82/2015, quyển số 01/2015 ngày 18/11/2015. Quá trình vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do vấn đề kinh tế gia đình, vợ chồng bất đồng quan điểm. Hiện nay, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02/2022 đến nay. Nay bà N xác định không còn tình cảm với ông L xin ly hôn. Bà N yêu cầu không công bố bản án trên cổng thông tin điện tử của tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà căn cứ các kết quả tranh luận tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào nơi cư trú và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, xét vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An và quan hệ tranh chấp ly hôn căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về việc giải quyết vắng mặt ông Huỳnh Tấn L và bà Nguyễn Thị N: bà Nguyễn Thị N có đơn xin vắng mặt, ông Huỳnh Tấn L vắng mặt không có lý do dù đã được tống đạt hợp lệ nhiều lần. Do đó, căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án vắng mặt bà N và ông L.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị N và ông Huỳnh Tấn L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phước Lâm, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An vào năm 2015 đúng với quy định tại Khoản 1 Điều 8 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Bà N yêu cầu ly hôn với ông L do trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn không thể giải quyết. Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết, ông L không đến Tòa án và cũng không gửi văn bản để thể hiện ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà N, cho thấy ông L không có thiện chí để vợ chồng hòa giải đoàn tụ. Hơn nữa, bà N cương quyết xin ly hôn và không yêu cầu hòa giải đoàn tụ. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị N là phù hợp với Khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình. Căn cứ Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị N đối với ông Huỳnh Tấn L.

[4] Về con chung: có 01 con chung tên là Huỳnh Thị Kim C, sinh ngày 02/01/2017. Hiện nay con chung đang sống chung với ông L nên bà N đồng ý giao con chung cho ông L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, bà N đồng ý cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 1.000.000 đồng. Hộ đồng xét xử ghi nhận ý kiến của bà N, giao cho ông Huỳnh Tấn L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Huỳnh Thị Kim C, sinh ngày 02/01/2017, bà N cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 1.000.000 đồng.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà N xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 các Điều 35, Điều 39, 227, 228, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị N được ly hôn với ông Huỳnh Tấn L.

2. Về con chung: Giao cho ông Huỳnh Tấn L được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Huỳnh Thị Kim C, sinh ngày 02/01/2017. Bà Nguyễn Thị N phải cấp dưỡng nuôi con hàng tháng là 1.000.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng kể từ ngày 27/6/2022 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; cấp dưỡng nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định tại các Điều 69, 70, 71, 72, 81, 82, 83, 85, 110,116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà N xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con sung vào công quỹ Nhà nước. Chuyển 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng mà bà N đã nộp theo biên lai thu số 0013173 ngày 16/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An sang án phí. Bà Nguyễn Thị N còn phải nộp tiếp 300.000 đồng.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm công khai. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

101
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 51/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về