Bản án về tranh chấp ly hôn số 269/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 269/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1240/2021/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 05 năm 2021, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 251/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/11/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Thanh T, sinh năm 1995

Địa chỉ: 48/4, khu phố 10, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai

- Bị đơn: Ông Nguyễn Đức C, sinh năm 1994.

Địa chỉ: 9/80, khu phố 12, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà T và ông C đều có đơn xin xét xử xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khi kiện, bản tự khai và biên bản hòa giải nguyên đơn bà Trần Thị Thanh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Nguyễn Đức C tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B vào năm 2017. Trong quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, thường xuyên xảy ra cãi vã dẫn đến gia đình luôn căng thẳng. Cả hai đã nhiều lần cố gắng khắc phục mâu thuẫn để hàn gắn hạnh phúc nhưng vẫn không có kết quả. Đến nay, nhận thấy tình cảm thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông Nguyễn Đức C.

Về con chung: Quá trình chung sống, hai người có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo Đ, sinh ngày 15/11/2018. Ly hôn bà đồng ý giao cháu Đ cho ông C trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc. Tạm thời, bà không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà T khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Bà T khai không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn Đức C trình bày tại bản tự khai và biên bản hòa giải: Ông đồng ý với lời khai của bà T về quá trình hai người tìm hiểu và đi đến kết hôn. Ông thừa nhận trong quá trình chung sống giữa hai ông bà có xảy ra mâu thuẫn, hai vợ chồng thường xảy ra xích mích với nhau, do bà T ham chơi không chăm lo gì cho con nên ông nóng giận có đánh bà T. Tuy nhiên, ông còn thương vợ, thương con nên bà T xin ly hôn, ông không đồng ý.

Nếu trường hợp bà T kiên quyết ly hôn:

Về con chung: Ông xác định, quá trình chung sống, hai người có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo Đ, sinh ngày 15/11/2018. Ly hôn, ông xin là người trực tiếp được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Đ. Ông không yêu cầu bà T cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B:

Về việc kiểm sát chấp hành pháp luật tố tụng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về việc giải quyết tranh chấp:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà Trần Thị Thanh T được ly hôn với ông Nguyễn Đức C, bởi giữa hai người đã không còn tình cảm, cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Tòa án cũng đã hòa giải đoàn tụ cho hai bên, nhưng bà T vẫn nhất quyết ly hôn.

- Về quan hệ con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của bà T và ông C giao cháu Nguyễn Ngọc Bảo Đ, sinh ngày 15/11/2018 cho ông Nguyễn Đức C nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Bà T không phải cấp dưỡng nuôi con. Vì không trực tiếp nuôi con nên bà T được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: các bên không yêu cầu giải quyết. Do đó, không đặt ra xem xét.

Về án phí: Bà Trần Thị Thanh T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

- Bà Trần Thị Thanh T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Đức C; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà T là nguyên đơn còn ông C là bị đơn trong vụ án.

- Ông Nguyễn Đức C xác định hiện nay ông đang cư trú tại số nhà: 9/80, khu phố 12, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Tòa án đã nhiều lần tống đạt giấy triệu tập, thông báo thụ lý cho ông C, ông C nhận được, ông C có lên Tòa án làm việc. Sau đó, ông có đơn xin vắng mặt tại buổi tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, bà T cũng có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B. Căn cứ vào các Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt bà T và ông C.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Bà T và ông Nguyễn Đức C tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B vào năm 2017. Quá trình chung sống, cuộc sống hôn nhân thời gian đầu bình thường, sau đó giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp. Bà T và ông C đã nhiều lần cố gắng khắc phục mâu thuẫn để hàn gắn hạnh phúc nhưng vẫn không có kết quả. Đến nay, nhận thấy tình cảm thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà T làm đơn xin được ly hôn với ông Nguyễn Đức C. Xét yêu cầu ly hôn của bà T là có cơ sở chấp nhận vì theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng trong đời sống chung vợ chồng thì cả bà T và ông C trong quá trình chung sống thường phát sinh mâu thuẫn, việc này cũng được ông C thừa nhận trong bản tự khai cung cấp cho Tòa án. Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ, nhưng bà T vẫn kiên quyết xin ly hôn. Từ đó, nhận thấy, cuộc sống hôn nhân của bà T và ông C không có khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Trần Thị Thanh T được ly hôn với ông Nguyễn Đức C.

[3]. Về con chung: Quá trình chung sống, hai người có 01 con chung là cháu Nguyễn Ngọc Bảo Đ, sinh ngày 15/11/2018. Ly hôn bà T đồng ý giao cho ông Nguyễn Đức C nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Bà không cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, ông C cũng có nguyện vọng xin nuôi dưỡng cháu Đ và bà T cũng đồng ý. Do đó, cần thiết áp dụng các Điều 81; 82; 83; 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Ghi nhận sự thỏa thuận của bà T và ông C giao cháu Đ cho ông C trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng; Tạm thời, bà T không phải cấp dưỡng cho con do ông C không yêu cầu.

Vì không trực tiếp nuôi con nên bà T được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

[4]. Về tài sản chung: Bà T và ông C khai không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Trần Thị Thanh T phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà bà T đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0001359 ngày 17/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B. Bà T đã nộp xong phần án phí HNGĐ sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227; Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Thanh T được ly hôn với ông Nguyễn Đức C.

Về con chung: Giao cháu Nguyễn Ngọc Bảo Đ, sinh ngày 15/11/2018 cho ông Nguyễn Đức C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tạm thời, bà Trần Thị Thanh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Vì không trực tiếp nuôi con, nên bà T được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con và cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu, nên Tòa án không đặt ra để xem xét giải quyết.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Trần Thị Thanh T phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà bà T đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0001359 ngày 17/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B. Bà T đã nộp xong phần án phí HNGĐ sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bà Trần Thị Thanh T và ông Nguyễn Đức C có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 269/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:269/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về