Bản án về tranh chấp ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B – TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1883/2021/TLST – HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2021, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 421/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10/01/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hồng M, sinh năm 1982 Hộ khẩu thường trú: 19/16, đường T643, xa lộ Hà Nội, tổ 9, khu phố 2A, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

-Bị đơn: Ông Vũ Trọng T, sinh năm 1980 Hộ khẩu thường trú: 91/11, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà M và ông T đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản hòa giải nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hồng M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Vũ Trọng T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai vào năm 2005. Trong quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, thường xuyên xảy ra cãi vã dẫn đến gia đình luôn căng thẳng. Bà và ông T đã ly thân gần 2 năm nay. Bà đã nộp đơn ly hôn 01 lần và đã rút đơn để tạo điều kiện cho vợ chồng có cơ hội hàn gắn nhưng không có kết quả. Đến nay, nhận thấy tình cảm thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông Vũ Trọng T.

Về con chung: Bà và ông T không có con chung.

Về tài sản chung: Bà và ông T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. quyết.

Nợ chung: Bà M khai không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải

- Bị đơn ông Vũ Trọng T trình bày tại bản tự khai và biên bản hòa giải: Ông T đồng ý với lời khai của bà M về quá trình hai người tìm hiểu và đi đến kết hôn. Trong quá trình chung sống vợ chồng ông sống hạnh phúc, không có mâu thuẫn gì. Do bố vợ bị bệnh nên ông cho bà M về chăm sóc bố hơn 01 năm qua, ông có lỗi là thời gian bà M về nhà bố mẹ ruột, ông đã không lo cho bà M, nhiều lần ông gặp bà M để xin lỗi nhưng bà M vẫn cố chấp không cho ông cơ hội. Nay bà M xin ly hôn, ông không đồng ý vì ông còn thương yêu bà M.

Về con chung: Ông và bà M không có con chung.

Về tài sản chung: Ông và bà M tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B:

Veà vieäc kieåm saùt chaáp haønh phaùp luaät toá tuïng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tòa án đã tiến hành đầy đủ các thủ tục theo quy định pháp luật.

Về vieäc giải quyết tranh chaáp:

- Veà quan heä hoân nhaân: Căn cứ vào Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Hồng M được ly hôn với ông Vũ Trọng T, bởi giữa hai người đã không còn tình cảm, cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Tòa án cũng đã hòa giải đoàn tụ cho hai bên, nhưng bà M vẫn nhất quyết ly hôn.

- Veà quan heä con chung: Bà M và ông T không có con chung nên không đặt ra xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: các bên không yêu cầu giải quyết. Do đó, không đặt ra xem xét.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Hồng M phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

- Bà Nguyễn Thị Hồng M khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Vũ Trọng T; Căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Tranh chấp ly hôn”. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định bà M là nguyên đơn còn ông T là bị đơn trong vụ án.

- Ông Vũ Trọng T xác định hiện nay ông đang cư trú tại số nhà: 91/11, khu phố 3, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ các Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Tòa án đã nhiều lần tống đạt giấy triệu tập, thông báo thụ lý cho ông T, ông T nhận được, ông T có lên Tòa án làm việc. Sau đó, ông T có đơn xin vắng mặt tại buổi tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa xét xử sơ thẩm.

Ngoài ra, bà M cũng có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố B. Căn cứ vào các Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án đưa ra xét xử vắng mặt bà M và ông T.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Bà M và ông Vũ Trọng T tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai vào năm 2005. Quá trình chung sống, cuộc sống hôn nhân thời gian đầu bình thường, sau đó giữa hai vợ chồng luôn phát sinh rất nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp. Bà M đã nộp đơn ly hôn 01 lần và đã rút đơn để tạo điều kiện cho vợ chồng có cơ hội hàn gắn nhưng không có kết quả. Đến nay, nhận thấy tình cảm thật sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên bà M làm đơn xin được ly hôn với ông Vũ Trọng T. Xét yêu cầu ly hôn của bà M là có cơ sở chấp nhận vì theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quý trọng chăm sóc nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng trong đời sống chung vợ chồng thì cả bà M và ông T trong quá trình chung sống thường phát sinh mâu thuẫn, hiện bà M và ông T đã không còn sống chung nhà được thể hiện tại Biên bản xác minh ngày 15/12/2021 của Ủy ban nhân dân phường T cung cấp và cũng được hai bên thừa nhận tại bản tự khai và Biên bản hòa giải. Tòa án đã tiến hành hòa giải đoàn tụ, nhưng bà M vẫn kiên quyết xin ly hôn. Từ đó, nhận thấy, cuộc sống hôn nhân của bà M và ông T không có khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Tòa án căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận cho bà Nguyễn Thị Hồng M được ly hôn với ông Vũ Trọng T.

[3]. Về con chung: Bà M và ông T xác định không có con chung nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Bà M và ông T tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Nguyễn Thị Hồng M phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà bà M đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0000353 ngày 16/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B. Bà M đã nộp xong phần án phí HNGĐ sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 227; Điều 228, Điều 266, Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Áp dụng các Điều 9; Điều 11; Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

- Áp dụng Điều 9, Điều 19; Điều 53, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hồng M. Bà Nguyễn Thị Hồng M được ly hôn với ông Vũ Trọng T.

Về con chung: Bà M và ông T không có con chung nên không đặt ra để xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Bà M và ông T tự thỏa thuận, nên Tòa án không đặt ra để xem xét giải quyết.

Nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Nguyễn Thị Hồng M phải nộp 300.000đồng án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được cấn trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí mà bà M đã nộp tại Biên lai thu tiền số 0000353 ngày 16/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B. Bà M đã nộp xong phần án phí HNGĐ sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Hồng M và ông Vũ Trọng T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ lúc nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về