Bản án về tranh chấp ly hôn số 1593/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1593/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 895/2022/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 374/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên toà số 308/2022/QĐST - HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trương Thị Thanh T, sinh năm 1991; địa chỉ: Số 10A đường 836, tổ 02, khu phố 03, phường P, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Ông Cao Mạnh D, sinh năm 1984; địa chỉ: Số 56/6 đường Q, tổ 50, khu phố 07, Phường 10, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 6 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Bà Trương Thị Thanh T trình bày:

Bà và ông Cao Mạnh D chung sống với nhau vào năm 2017 trên cơ sở tự nguyện; đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 73 ngày 12/4/2017. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do ông D không có trách nhiệm với gia đình, không tôn trọng và xúc phạm bà, thậm chí còn dùng bạo lực đối với bà, mặc dù bà đã cố gắng rất nhiều để vợ chồng hàn gắn mâu thuẫn nhưng vẫn không có kết quả, cuộc sống chung không hạnh phúc nên bà đưa con về nhà mẹ ruột sống từ năm 2018 cho đến nay. Bà xác định vợ chồng không còn tình cảm, mâu thuẫn không thể hàn gắn được vì thời gian sống ly thân đã lâu, đề nghị Toà giải quyết cho bà được ly hôn với ông D.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Cao Hoàn Cẩm T, sinh ngày 13/7/2017; hiện trẻ T đang sống chung cùng bà. Ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ngày 18/8/2022 nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa đưa vụ án ra xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, giấy triệu tập; các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng không giao nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo; đồng thời vắng mặt không lý do trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng, đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét đơn kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xác định đây là quan hệ: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Do bị đơn cư trú tại quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa đưa vụ án ra xét xử vắng mặt; bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 73 do Uỷ ban nhân dân Phường 10, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/4/2017, xác định hôn nhân giữa nguyên đơn và bị đơn là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Nguyên nhân nguyên đơn xin ly hôn là do bị đơn không có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng không có sự tôn trọng nhau, thời gian sống ly thân đã lâu. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa đã triệu tập các bên hòa giải nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng hàn gắn mâu thuẫn nhưng phía bị đơn không có ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn và cũng không đến Tòa để giải quyết những mâu thuẫn, vướng mắt trong cuộc sống vợ chồng, như vậy chứng tỏ bản thân bị đơn không quan tâm đến cuộc hôn nhân này nên không có thiện chí muốn hàn gắn lại quan hệ vợ chồng. Theo kết quả xác minh tại địa phương thể hiện bà T và ông D không chung sống với nhau. Xét thấy, hôn nhân chỉ đạt được mục đích khi xuất phát từ tình yêu thương giữa hai vợ chồng, phải cùng quan tâm, chia sẻ và chăm sóc lẫn nhau, thời gian vợ chồng xảy ra mâu thuẫn đã lâu nhưng cả hai không có hướng khắc phục, giải quyết, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt hơn. Từ những phân tích trên cho thấy cuộc sống vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn hoàn toàn không hạnh phúc, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng không thể hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, khả năng đoàn tụ không có. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn là chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

Về con chung: Căn cứ vào bản sao trích lục khai sinh số 652/TLKS-BS ngày 29/7/2017 của Ủy ban nhân dân Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh và lời khai của nguyên đơn, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định giữa nguyên đơn và bị đơn có 01 con chung tên Cao Hoàn Cẩm T, sinh ngày 13/7/2017. Xét, trẻ T đang sống ổn định cùng mẹ, nguyên đơn cũng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T, bị đơn không có ý kiến gì đối với yêu cầu nuôi con nên để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của trẻ Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao trẻ T cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi trưởng thành.

Đi với việc cấp dưỡng nuôi con: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

[4] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Trương Thị Thanh T phải chịu án phí về ly hôn là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 .

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273, Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các điều 51, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và Điều 85 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị Thanh T được ly hôn với Ông Cao Mạnh D (Giấy chứng nhận kết hôn số 73 do Uỷ ban nhân dân phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/4/2017 hết hiệu lực pháp luật).

2. Về con chung: Giao trẻ Cao Hoàn Cẩm T, sinh ngày 13/7/2017 cho bà T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến tuổi trưởng thành. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với ông D cho đến khi bà T có yêu cầu.

Ông D có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở, tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Trên cơ sở lợi ích của con, cha, mẹ, người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi cần thiết đương sự có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

4. Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng Bà Trương Thị Thanh T phải chịu, được cấn trừ vào tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0048621 ngày 17/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đủ án phí.

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền được thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 1593/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1593/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về