Bản án về tranh chấp ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤNG HIỆP-TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 383/2021/TLST- HNGĐ, ngày 08 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HN, ngày 17 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1982.

Địa chỉ: ấp B, thị trấn C, huyện H, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Nguyễn Quốc N sinh năm 1979.

Địa chỉ: ấp B, thị trấn C, huyện H, tỉnh Hậu Giang. Các đương sự có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết, nguyên đơn Nguyễn Thị Kim H (Sau đây gọi chị H) trình bày: Giữa chị và bị đơn Nguyễn Quốc N (Sau đây gọi anh N) qua tìm hiểu nhau mà tự nguyện quyết định đi đến hôn nhân vào năm 2002, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chung sống phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống trong nhiều việc, cuộc sống luôn cãi vã nhau thậm chí chồng chị còn có thái độ hành hung chị nên tình cảm vợ chồng phai nhạt, đã nhiều lần hoà giải hàn gắn tình cảm nhưng không thành nên đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2021 đến nay. Do cuộc sống chung không hạnh phúc, chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

-Về hôn nhân: Xin ly hôn với anh N.

-Về con chung: Có hai người con chung, có một người đã đủ tuổi trưởng thành, người còn lại là Nguyễn Huỳnh Tuấn A (Nam), sinh ngày 12 tháng 9 năm 2012. Từ khi ly thân đến nay con chung sống với chị H, khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con chung, chưa yêu cầu cấp dưỡng.

Về nợ và tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 16 tháng 02 năm 2022, bị đơn Nguyễn Quốc N trình bày: Giữa anh và chị H chung sống vào năm 2002, có đăng ký kết hôn. Do sống chung không hạnh phúc nên anh cũng đồng ý ly hôn. Về con chung: Có hai người con nhưng một người đã trưởng thành, người còn lại anh đồng ý để chị H nuôi dưỡng, anh chưa cấp dưỡng. Về nợ và tài sản: Không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 17 tháng 12 năm 2021, cháu Nguyễn Huỳnh Tuấn A trình bày (có sự chứng kiến của chị H): Khi cha mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được sống với mẹ.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu: Về thủ tục tố tụng: Tòa án, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của nguyên đơn; giao con chung cho nguyên đơn nuôi dưỡng, bị đơn chưa cấp dưỡng; về nợ và tài sản chung, không yêu cầu nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tranh chấp giữa các đương sự là Tranh chấp ly hôn được qui định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyễn Thị Kim H và Nguyễn Quốc N đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử mở phiên tòa xét xử vắng mặt đối với các đương sự.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân: chị H và anh N qua tìm hiểu nhau, tự nguyện tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn ngày 08 tháng 7 năm 2002 tại Ủy ban nhân dân xã Hòa An, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang, nên hôn nhân của anh, chị là hợp pháp và được pháp luật thừa nhận.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của chị H: Chị và anh N trong thời gian chung sống có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống mà không có giải pháp khắc phục để hoà giải hàn gắn tình cảm mà đã chọn cách sống ly thân; xét thời gian ly thân thì tự ai người đó sống, không ai quan tâm, lo lắng cho ai. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tạo điều kiện để hòa giải đoàn tụ nhưng cả chị H và anh N đều xác định không còn tình cảm vợ chồng với nhau và cương quyết xin ly hôn; từ đó thấy rằng hôn nhân giữa hai người đã thật sự lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được; căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân gia đình có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[5] Về con chung: Có một người con chung chưa đủ tuổi trưởng thành, anh chị không tranh chấp về quyền nuôi con. Xét từ khi ly thân đến nay thì con chung do chị H nuôi, chị Hcó yêu cầu nuôi con, yêu cầu này phù hợp với nguyện vọng của cháu Tuấn A, nhằm tránh gây xáo trộn đời sống của cháu, cần tiếp tục giao cháu cho chị H nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi chị H, anh N có yêu cầu khác.

[6] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Chị H chưa yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét.

[7] Về nợ và tài sản chung: Các đương sự trình bày không có, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải nộp theo quy định pháp luật.

Lời đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là có căn cứ chấp nhận; Các đương sự được quyền kháng cáo theo luật định;

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 228 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kim H và anh Nguyễn Quốc N.

2. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu, không xem xét.

3. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Huỳnh Tuấn A (nam), sinh ngày 12 tháng 9 năm 2012 cho chị Nguyễn Thị Kim H được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc khi chị H, anh N có yêu cầu khác.

Nguyễn Quốc N chưa phải cấp dưỡng nuôi con. Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho Nguyễn Quốc N mà không ai có quyền cản trở.

4. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Kim H phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ từ 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007558, ngày 08 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang thành án phí, không phải nộp thêm.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phụng Hiệp - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về