Bản án về tranh chấp ly hôn số 1122/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1122/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi (số 77B đường Tỉnh lộ 8, khu phố 7, thị trấn Củ Chi, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh) xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 161/2022/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 260/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 303/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị T; địa chỉ: số 76 Đường số 457, tổ 5, ấp Chợ, xã Trung An, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn T1; địa chỉ: số 76 Đường số 457, tổ 5, ấp Chợ, xã Trung An, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại bản tự khai, biên bản hòa giải, nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày:

Bà Lê Thị T và ông Nguyễn Văn T1 tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật (Giấy chứng nhận kết hôn số 70, quyển số 01/2012, do Ủy ban nhân dân xã Trung An, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 30/6/2012).

Thời gian đầu sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc, tuy nhiên những năm gần đây vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do ông T1 không lo làm ăn, chỉ ăn chơi dẫn đến tình trạng nợ nần, đem đồ đạc trong nhà đi cầm cố hết lần này đến lần khác, phải bán nhà để trả nợ, ông T1 đã đuổi hai mẹ con bà Thủy ra khỏi nhà, ngoài ra bà Thủy và ông T1 còn khác biệt về quan điểm sống và nhiều vấn đề khác trong cuộc sống khiến tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, bà Thủy đã nhiều lần khuyên nhủ, tạo điều kiện để hàn gắn gia đình nhưng ông T1 không thay đổi. Mâu thuẫn cứ kéo dài làm cho cả hai thấy mệt mỏi, căng thẳng, ảnh hưởng đến cuộc sống và sự phát triển của con. Tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được, vì vậy bà Thủy yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn cho bà với ông T1 để rõ ràng về mặt pháp lý.

Có 02 con chung tên Nguyễn Lê Nhật Bình, sinh ngày 24/10/2012 và Nguyễn Lê Kim Oanh, sinh ngày 30/12/2015. Bà Thủy yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, bà Thủy không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

- Tại phiên tòa bà Lê Thị T vẫn giữ nguyên ý kiến nêu trên.

* Bị đơn ông Nguyễn Văn T1 trong suốt quá trình giải quyết vụ án từ thời điểm thụ lý, hòa giải xét xử và tai phiên tòa vắng mặt không rõ lý do, nên Tòa án không thu thập được ý kiến trình bày của ông T1:

Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi về việc giải quyết vụ án như sau:

- Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Củ Chi đã tiến hành các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử đã tiến hành xét xử đúng trình tự tố tụng của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là quan hệ tranh chấp ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi theo quy định của khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà Lê Thị T khởi kiện yêu cầu giải quyết được ly hôn với ông Nguyễn Văn T1. Giữa hai bên có phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn. Vì vậy, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. về con chung, bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Lê Nhật Bình, sinh ngày 24/10/2012 và Nguyễn Lê Kim Oanh, sinh ngày 30/12/2015. Bà Thủy không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con, ý kiến của trẻ Bình có nguyện vọng ở với bà T và hiện tại hai con chung đang ở cùng với bà Thủy. Do đó, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết giao trẻ Bình và trẻ Oanh cho bà T được trực tiếp nuôi dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng và quan hệ pháp luật:

Bà Lê Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và tranh chấp nuôi con chung với ông Nguyễn Văn T1. Tại thời điểm bà Thủy khởi kiện thì ông Nguyễn Văn T1 đang cư trú tại huyện Củ Chi. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông T1 đến lần thứ 2, nhưng ông T1 vẫn vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Bà Lê Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Văn T1 với lý do vợ chồng không cùng quan điểm sống, không hòa hợp về vấn đề tình cảm. Nguyên nhân do ông T1 không lo làm ăn, chỉ ăn chơi dẫn đến tình trạng nợ nần, đem đồ đạc trong nhà đi cầm cố hết lần này đến lần khác, phải bán nhà để trả nợ, ông T1 đã đuổi hai mẹ con bà Thủy ra khỏi nhà, ngoài ra bà Thủy và ông T1 còn khác biệt về quan điểm sống và nhiều vấn đề khác trong cuộc sống khiến tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt, bà Thủy đã nhiều lần khuyên nhủ, tạo điều kiện để hàn gắn gia đình nhưng ông T1 không thay đổi. Mâu thuẫn cứ kéo dài làm cho cả hai thấy mệt mỏi, căng thẳng, ảnh hưởng đến cuộc sống và sự phát triển của con. Bà Thủy xác định không còn tình cảm với ông T1 nên xin được ly hôn. Xét thấy, giữa bà Thủy và ông T1 có phát sinh mâu thuẫn. Việc bà Thủy yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn đối với ông T1 với lý do giữa hai bên phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được là có cơ sở. Căn cứ theo Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

Về yêu cầu giải quyết nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con: Bà Lê Thị T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Lê Nhật Bình, sinh ngày 24/10/2012 và Nguyễn Lê Kim Oanh, sinh ngày 30/12/2015 và không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng, ông T1 vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không thu thập được ý kiến của ông T1 về việc trực tiếp nuôi dưỡng con chung, nguyện vọng của trẻ Bình muốn được sống chung với bà T. Nhận thấy, bà Thủy hiện đang là người trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và có việc làm, thu nhập ổn định, việc bà Thủy yêu cầu Tòa án giải quyết giao con chung cho bà Thủy nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện kinh tế của bà Thủy, phù hợp với điều kiện phát triển bình thường của trẻ, tránh việc thay đổi cuộc sống sinh hoạt, học tập của hai trẻ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị T.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có. Do đó, Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[3]. Xét ý kiến của bị đơn:

Bị đơn ông Nguyễn Văn T1 trong suốt quá trình giải quyết vụ án từ thời điểm thụ lý, hòa giải xét xử và tại phiên tòa vắng mặt không rõ lý do, nên Tòa án không thu thập được ý kiến trình bày của ông T1. Nên Hội đồng xét xử căn cứ vào lời trình bày và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

[4]. Xét ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giải quyết cho bà Lê Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn T1, giao con chung là trẻ Nguyễn Lê Nhật Bình, sinh ngày 24/10/2012 và Nguyễn Lê Kim Oanh, sinh ngày 30/12/2015 và ghi nhận sự tự nguyện của bà Thủy không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi là có cơ sở chấp nhận.

[5]. Về án phí:

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn là bà Lê Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 271, Điều 273, Điều 278, Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T.

Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn T1.

Giấy chứng nhận kết hôn số 70, do Ủy ban nhân dân xã Trung An, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 30/6/2012, không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Giao cho bà Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng con chung là trẻ Nguyễn Lê Nhật Bình, sinh ngày 24/10/2012 và Nguyễn Lê Kim Oanh, sinh ngày 30/12/2015. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Thủy không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Văn T1 được quyền thăm nom con, không ai được cản trở ông T1 thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con hoặc theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

2. Về án phí:

Bà Lê Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0043757 ngày 20/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Củ Chi. Bà Lê Thị T đã nộp đủ tiền án phí.

Các quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự được thực hiện tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

4. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 1122/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1122/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về