Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 51/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 283/2021/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết H, sinh năm 1981; cư trú tại: Ấp A, xã PC, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Xin vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc C, sinh năm 1979; cư trú tại: Ấp A, xã PC, huyện C, tỉnh Tiền Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, nguyên đơn, chị Nguyễn Thị Tuyết H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Quốc C tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có thời gian tìm hiểu được vài tháng thì tổ chức đám hỏi vào tháng 8-2001, đến tháng 02- 2002 thì tổ chức đám cưới. Tuy nhiên, sau khi sinh hai con thì chị và anh C mới đăng ký kết hôn vào ngày 13-10-2008. Sau khi cưới, vợ chồng sống bên gia đình anh C và không thật sự hạnh phúc, anh C có quan tâm đến vợ con nhưng thường xuyên nhậu nhẹt, chị khuyên ngăn không những anh C không nghe mà còn chửi, đánh chị. Vì muốn giữ hạnh phúc gia đình nên chị giấu bên gia đình chị và gia đình chồng. Trước năm 2019, chị ở nhà đưa đón con đi học và làm việc nhà, nhưng từ tháng 9-2019 chị đi làm công ty, anh C ở nhà đưa đón con thì phát sinh cờ bạc, đánh đề thiếu nợ 300 – 400 triệu đồng, chị và gia đình bên chồng phái trả. Ngoài ra, anh C còn có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, giới thiệu cho chị em người phụ nữ đó về mở bán quán nhậu gần nhà. Khi anh C đến quán, chị có đến kêu về nói chuyện hơi lớn tiếng thì anh C muốn đánh chị, chị có làm ngã ly trên bàn thì chị em người phụ nữ đó đánh chị rơi bông tai nhưng anh C không can ngăn. Kể từ ngày 26-3-2021, do không thể chung sống được nữa nên chị đã về nhà cha mẹ ruột sinh sống. Khi chị đi rồi, chị có nghe gia đình bên chồng nói anh C tiếp tục cờ bạc gây nợ khoảng 01 tỉ đồng, đã bỏ đi trốn nợ không biết đi đâu. Ngoài ra, anh C và anh ruột của chị cũng có mâu thuẫn trong việc làm ăn; anh C đập điện thoại của chị. Từ khi chị đi đến nay, anh C có gọi điện kêu chị về được vài lần, nhưng có lần chị chở con đi ngoài đường gặp anh C nhưng anh C cũng không quan tâm. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, tình trạng hôn nhân đã trầm trọng nên yêu cầu được ly hôn với anh C.

Về con chung: Có 02 con chung là cháu Nguyễn Quốc H, sinh ngày 31-3- 2004 và cháu Nguyễn Quốc D, sinh ngày 24-8-2006. Hai con hiện đang sống chung với ông bà nội nhưng mọi thứ chi tiêu, chăm sóc cho con hầu như do chị lo. Do hai con có nguyện vọng được sống với ông bà nội nên chị đồng ý để các con tiếp tục ở đó. Chị không cấp dưỡng nuôi con mà sẽ tự lo theo khả năng của mình.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị không yêu cầu giải quyết, để các bên tự thỏa thuận.

Trong quá trình giải quyết vụ án, dù anh Nguyễn Quốc C đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, bản sao các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn giao nộp nhưng anh C không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị H, vắng mặt trong các phiên họp và tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Chị Nguyễn Thị Tuyết H và anh Nguyễn Quốc C tranh chấp về ly hôn;

anh C cư trú tại ấp A, xã PC, huyện C, tỉnh Tiền Giang. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thẩm quyền giải quyết vụ án là của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy.

[2] Nguyên đơn, chị Nguyễn Thị Tuyết H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn, anh Nguyễn Quốc C không có đơn xin xét xử vắng mặt, đã được Tòa án tiến hành triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vụ án vắng mặt anh C, chị H.

[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Tuyết H và anh Nguyễn Quốc C là hợp pháp vì có đăng ký và được Ủy ban nhân dân xã PC, huyện C, tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn số 18, ngày 13-10-2008. Sau khi đám cưới vào tháng 02- 2002, vợ chồng sống không thật sự hạnh phúc, đến ngày 26-3-2021 thì chị H đã bỏ về nha cha mẹ ruột sinh sống, vợ chồng ly thân. Nguyên nhân mâu thuẫn được chị H nêu là do anh C thường xuyên nhậu nhẹt rồi đánh đập, chửi mắng chị. Ngoài ra, anh C còn cờ bạc gây nợ nần dẫn đến chị và gia đình anh C phải trả nợ thay, anh C còn có mối quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác. Chị H và anh C sống ly thân đã lâu nhưng cả hai không có biện pháp gì hàn gắng, không còn quan tâm đến nhau. Mặc dù nguyên nhân mâu thuẫn do chị H nêu, nhưng anh C không có ý kiến gì là tự mình từ bỏ nghĩa vụ chứng minh, phía anh C cũng không đến Tòa để hàn gắng tình cẳm vợ chồng, điều đó đã cho thấy anh C không còn quan tâm đến hôn nhân với chị H. Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; cùng chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình” “vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau”. Qua đó, Hội đồng xét xử nhận thấy giữa chị H và anh C đã không còn tình nghĩa vợ chồng, tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không còn nên mục đích của hôn nhân không đạt được, vì vậy yêu cầu xin ly hôn của chị H là có căn cứ.

[4] Về con chung: Có 02 con chung là cháu Nguyễn Quốc H, sinh ngày 31-3- 2004 và cháu Nguyễn Quốc D, sinh ngày 24-8-2006. Hai cháu hiện đang sống chung với ông bà nội và có nguyện vọng được tiếp tục sống với ông bà nội nên chị H đồng ý để các con cho phía anh C trực tiếp nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi, sẽ tự cấp dưỡng theo khả năng của mình. Xét ý kiến đồng ý giao con cho phía anh C nuôi là tự nguyện nên ghi nhận, anh C không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H, anh C đều không yêu cầu, có ý kiến gì về phần này nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết H là nguyên đơn khởi kiện vụ án hôn nhân gia đình nên phải chịu án phí theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Tuyết H. Cho chị Nguyễn Thị Tuyết H được ly hôn với anh Nguyễn Quốc C.

2. Về con chung:

Giao hai cháu Nguyễn Quốc H, sinh ngày 31-3-2004 và cháu Nguyễn Quốc D, sinh ngày 24-8-2006 cho phía anh Nguyễn Quốc C nuôi dưỡng sau khi ly hôn.

Chị Nguyễn Thị Tuyết H không phải cấp dưỡng nuôi con do anh C chưa yêu cầu. Chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết H phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng đã nộp tạm ứng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001**7 ngày 28-10-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, nên xem như đã thi hành xong.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Tuyết H, anh Nguyễn Quốc C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

114
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 51/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về