TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 111/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 23 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 587/2022/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp “ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 200/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:
+ Nguyên đơn: Bà Mai Thị Ngọc D, sinh năm 1998; địa chỉ: ấp L1, xã L, huyện C, tỉnh An Giang.
Địa chỉ liên lạc: Số x, tổ 5, ấp Long Hòa 2, xã Long Điền A, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang (có mặt).
+ Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Khánh L, sinh năm 1996; địa chỉ: ấp L1, xã L, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và tại các phiên hòa giải Mai Thị Ngọc D trình bày: Bà và ông Nguyễn Văn Khánh L sống chung với nhau vào năm 2016 có đăng ký kết hôn tại UBND xã L, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang; hôn nhân tự tìm hiểu. Vợ chồng chung sống đến giữa năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, chồng không lo làm ăn và có người phụ nữ khác bên ngoài hôn nhân không đạt được mục đích và không còn chung sống từ năm 2020 nay. Nay nhận thấy tình cảm không còn, nên bà xin ly hôn với ông Nguyễn Văn Khánh L.
+ Về quan hệ con chung: Bà và ông L có 01 con chung tên Nguyễn Khánh Duy, sinh ngày 20/8/2017. Hiện tại con chung đang chung sống với bà. Khi ly hôn bà yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng con chung, bà không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.
+ Về quan hệ tài sản chung: Bà và ông L tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
+ Về quan hệ nợ chung: Không có.
Bị đơn ông Nguyễn Văn Khánh L đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông L không gửi văn bản cũng như không tham gia các phiên hòa giải nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông L về yêu cầu khởi kiện của bà Mai Thị Ngọc D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Nguyễn Văn Khánh L đã được tống đạt các Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng hôm nay ông L vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L là đúng theo quy định của pháp luật.
Bà Mai Thị Ngọc D xin ly hôn với ông Nguyễn Văn Khánh L. Ông L có nơi cư trú tại ấp L1, xã L, huyện C, tỉnh An Giang. Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án: Bà Mai Thị Ngọc D và ông Nguyễn Văn Khánh L xác lập quan hệ vợ chồng và chung sống với nhau vào năm 2016, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Nên hôn nhân của ông, bà được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình chung sống mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, hiện tại tình cảm hôn nhân giữa Bà D và ông L không thể tồn tại. Hội đồng xét xử xét thấy mối quan hệ vợ chồng giữa Bà D và ông L không thể hàn gắn được, mâu thuẫn phát sinh ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không hạnh phúc. Vì vậy, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của bà Mai Thị Ngọc D xin ly hôn với ông Nguyễn Văn Khánh L là phù hợp được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
- Về quan hệ con chung: Bà Mai Thị Ngọc D và ông Nguyễn Văn Khánh L có 01 con chung tên Nguyễn Khánh Duy, sinh ngày 20/8/2017. Hiện nay con chung đang sống với Bà D. Khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, bà không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi Bà D và ông L không còn sống chung từ đầu năm 2020 đến nay thì con chung sống ăn ở cùng với ông Dung vẫn đảo bảo thể sức khỏe và tâm sinh lý phát triển tốt. Do đó Hội đồng xét xử nghỉ nên giao con chung cho Bà D được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với quy định pháp luật. Do Bà D không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xét đến.
Ông Nguyễn Văn Khánh L không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng ông có quyền tới lui trông nom và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản ông L thực hiện quyền này.
Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.
- Về quan hệ tài sản chung: Bà D trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không xét đến.
- Về quan hệ nợ chung: Bà D trình bày không có nợ chung; nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của Bà D và ông L trong thời kỳ hôn nhân thì Bà D và ông L vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
[3] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng:
- Các Điều 56, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình.
- Các Điều 28, 35, 146, 147, 212, 213, 227, 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên Xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Mai Thị Ngọc D.
2. Về quan hệ hôn nhân: Bà Mai Thị Ngọc D được ly hôn với ông Nguyễn Văn Khánh L.
Giấy chứng nhận kết hôn số 254, ngày 12/12/2016 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp cho bà Mai Thị Ngọc D và ông Nguyễn Văn Khánh L. Không còn giá trị pháp lý.
3. Về quan hệ con chung: Bà Mai Thị Ngọc D được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung tên Nguyễn Khánh Duy, sinh ngày 20/8/2017. Ông L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Ông L không trực tiếp nuôi dưỡng con chung nhưng ông có quyền tới lui trông nom và giáo dục con chung, không ai được ngăn cản ông L thực hiện quyền này.
Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay mức cấp dưỡng nuôi con.
4. Về quan hệ tài sản chung: Bà D trình bày không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
5. Về quan hệ nợ chung: Bà D trình bày không có nợ chung; nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của Bà D và ông L trong thời kỳ hôn nhân thì Bà D và ông L vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.
6. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Mai Thị Ngọc D phải chịu án phí hôn nhân, gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm ngàn) đồng; theo biên lai thu số 0009887 ngày 17/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Bà D đã nộp xong.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bà Mai Thị Ngọc D được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Văn Khánh L được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hoặc niêm yết bản án hợp lệ./.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 111/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 111/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về