TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU - TP ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 21 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải Châu, TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 122/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 về "Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 01 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê T, sinh năm 1983; Địa chỉ: 274 đường T, quận L, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Thanh Tr, sinh năm 1988; Địa chỉ: K2/44 đường T, quận H, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn – ông Lê T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Tôi và bà Nguyễn Thị Thanh Tr xây dựng gia đình với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường P, quận H, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống ở nhà cha mẹ vợ một thời gian thì chuyển ra thuê trọ sống riêng. Đến năm 2014, vợ chồng chúng tôi xây nhà và chuyển về ở tại địa chỉ 274 đường T, quận L, thành phố Đà Nẵng. Trong cuộc sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn đến năm 2015 bà Tr đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Bản thân tôi đã nhiều lần hàn gắn vợ chồng nhưng bà Tr không chịu quay về và vợ chồng chúng tôi sống ly thân từ đó đến nay. Nay tôi xác định tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với bà Tr.
Về quan hệ con chung: Tôi xác định tôi và bà Nguyễn Thị Thanh Tr có 03 con chung tên Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009; Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 và Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016. Hiện nay, 02 con chung Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009 và Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 đang ở cùng tôi; con chung Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016 đang do bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009 và Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 và giao con chung Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016 cho bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.
* Bà Nguyễn Thị Thu Tr vắng mặt tại phiên tòa, vắng mặt tại các lần hòa giải nhưng bà Tr có gửi đến Tòa án đơn trình bày ý kiến như sau:
- Về quan hệ hôn nhân: bà xác định vợ chồng bà có mâu thuẩn và đã ly thân nhau 6 năm. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý ly hôn với ông Lê T.
- Về quan hệ con chung: bà Tr và ông T có 03 con chung tên Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009; Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 và Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016. Hiện nay, 02 con chung Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009 và Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 đang ở cùng ông T; con chung Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016 do bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, bà Tr có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016; giao con chung Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009 và Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.
- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Tr không đề cập giải quyết.
* Tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng pháp luật. Đối với bị đơn, kể từ thời điểm thụ lý đến thời điểm trước khi mở phiên tòa đã không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; tại phiên tòa hôm nay bị đơn vắng mặt lần thứ 2 không có lý do, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định pháp luật.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử cho ông Lê T được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh Tr; giao con chung Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009 và Lê Nguyễn Anh H1, sinh ngày 20/12/2010 cho ông Lê T trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung Lê Nguyễn Tuấn Huy, sinh ngày 11/02/2016 cho bà Nguyễn Thị Thanh Tr trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào; về tài sản chung: không yêu cầu giải quyết nên không đề cập đến; về nợ chung: không có nên không đề cập đến.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là bà Nguyễn Thị Thanh Tr đã được Tòa án thực hiện các thủ tục triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng đến lần thứ hai vẫn không có mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để xét xử vắng mặt đương sự nói trên.
[2] Về nội dung vụ án: Theo nguyên đơn trình bày thì ông và bà Nguyễn Thị Thanh Tr xây dựng gia đình với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường P, quận H, thành phố Đà Nẵng. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống ở nhà cha mẹ bà Tr một thời gian thì chuyển ra thuê trọ sống riêng. Đến năm 2014, vợ chồng ông bà xây nhà và chuyển về ở tại địa chỉ 274 đường T, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng. Trong cuộc sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn đến năm 2015 bà Tr đã bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho đến nay. Bản thân ông T đã nhiều lần hàn gắn vợ chồng nhưng bà Tr không chịu quay về và vợ chồng ông bà đã sống ly thân từ đó đến nay. Nay ông T xác định tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Tr.
Bà Nguyễn Thị Thanh Tr không đến Tòa án nhưng có gửi đơn trình bày ý kiến và thống nhất ly hôn với ông Lê T.
[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thì thấy: Cuộc hôn nhân của ông Lê T và là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Đến nay, ông T cho rằng mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống hôn nhân không để kéo dài và không còn tình cảm với bà Tr nữa nên có quyền làm đơn khởi kiện xin ly hôn theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn, từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử bà Nguyễn Thị Thanh Tr đều không có mặt theo triệu tập; thông báo của Toà án, không có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tham gia các phiên hoà giải và cũng không tham gia phiên toà tuy nhiên có gửi đơn trình bày ý kiến đồng ý ly hôn với ông Lê T. Kết quả xác minh tại địa phương cho thấy, vợ chồng ông T và bà Tr không còn chung sống với nhau tại địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng ông bà đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được; có kéo dài cuộc hôn nhân này cũng không đem lại kết quả nên cần áp dụng Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của ông Lê T là hợp tình hợp lý.
[4] Về quan hệ con chung: Ông Lê T trình bày vợ chồng có 03 con chung tên Lê Nguyễn Tuấn sinh ngày 06/5/2009; Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 và Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016. Ly hôn, ông T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009 và Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 và giao con chung Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016 cho bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Bà Nguyễn Thị Thanh Tr cũng có ý kiến thống nhất theo nguyện vọng của ông T. Hiện nay 02 con chung Lê Nguyễn Tuấn Kiệt và Lê Nguyễn Anh Hoàng đang ở với ông T, con Lê Nguyễn Tuấn Huy đang ở cùng bà Tr; đồng thời Tòa án đã tiến hành lấy lời khai tham khảo ý kiến của 2 cháu Kiệt và Hoàng theo quy định pháp luật, cả hai cháu đều mong muốn ở với ba là ông Lê T. Do vậy, nguyện vọng giao con chung Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009 và Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016 cho bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào là phù hợp.
[5] Về quan hệ tài sản chung: Ông Lê T trình bày tài sản chung vợ chồng tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Về nợ chung: Ông Lê T trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[6] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nguyên đơn phải chịu theo luật định.
[7] Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp và đúng quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 63, 147, 227, 228, 235, 266 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử :
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung" của ông Lê T và bà Nguyễn Thị Thanh Tr.
1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Lê T được ly hôn với bà Nguyễn Thị Thanh Tr.
(Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 124, ngày 21 tháng 10 năm 2008 của UBND phường Thuận Phước, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng) 2. Về quan hệ con chung: Ông Lê T và bà Nguyễn Thị Thanh Tr có 03 con chung tên Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009; Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 và Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016.
Giao con chung Lê Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 06/5/2009 và Lê Nguyễn Anh H, sinh ngày 20/12/2010 cho ông Lê T trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Lê Nguyễn Tuấn H1, sinh ngày 11/02/2016 cho bà Nguyễn Thị Thanh Tr trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.
Bên không trực tiếp nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi về mức cấp dưỡng nuôi con.
3. Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Lê T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Hải Châu, TP Đà Nẵng theo biên lai thu số 0000417 ngày 28/10/2021.
4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 04/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 04/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hải Châu - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/02/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về