Bản án về tranh chấp hụi số 39/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH BẠC LIÊU

BN ÁN 39/2022/DS-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công P vụ án Dân sự thụ lý số 182/2021/TLST-DS ngày 21 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp hụi, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 25/2022/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 03 năm 2022, giữa các đương sự:

- Đồng nguyên đơn: Ông Nguyễn B, sinh năm 1956 và bà Cao Thị C, sinh năm 1958. Cùng địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu. (Có mặt).

- Đồng bị đơn: Ông Lý Quốc E, sinh năm 1979 và bà Huỳnh Chúc Ê, sinh năm 1978. Cùng địa chỉ: Ấp G, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03 tháng 12 năm 2021, các lời P tại Tòa án, đồng nguyên đơn ông Nguyễn B, bà Cao Thị C thống nhất trình bày: Ông Lý Quốc E và bà Huỳnh Chúc Ê có tham gia chơi 03 dây hụi do ông A, bà C làm chủ hụi, cụ thể như sau:

Dây hụi thứ nhất: Mở ngày 10/3/2017 (âm lịch), loại hụi mùa, 04 tháng khui một lần, trị giá 10.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 14 thành viên tham gia chơi 16 phần hụi. Ông E và bà Ê tham gia chơi 01 phần hụi (danh sách hụi ghi tên Vợ E số thứ tự số 4); bà Ê và ông E góp hụi được 02 lần được tổng số tiền 11.500.000 đồng (lần thứ nhất góp tiền hụi 6.000.000 đồng và lần thứ hai góp tiền hụi 5.500.000 đồng); đến kỳ mở hụi thứ ba (ngày 10/11/2017 âm lịch) bà Ê để số tiền 4.500.000 đồng hốt 01 phần hụi, các hụi viên chưa hốt hụi góp số tiền 5.500.000 đồng; lĩnh được tổng số tiền hụi là 91.500.000 đồng; giao tiền hụi trên vào ngày 30/12/2017 âm lịch (có làm biên nhận có chữ ký của bà Ê). Sau khi hốt hụi, bà Ê và ông E góp lại tiền hụi chết 03 lần được số tiền 30.000.000 đồng. Dây hụi trên chưa mãn nhưng đã đình hụi vào ngày 30/01/2019 (âm lịch). Các hụi viên tham gia chơi dây hụi trên có chưng hụi sống đã khởi kiện tại Tòa án và đã giải quyết xong để yêu cầu ông B, bà C trả cho họ số tiền hụi thực đóng đã góp của 06 lần khui hụi, gồm:

1. Ông Huỳnh Thanh J; địa chỉ: Ấp G, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, tham gia chơi 02 phần hụi;

2. Bà Nguyễn Thị H; địa chỉ: Ấp G, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, tham gia chơi 01 phần hụi;

3. Ông Trịnh Văn I; địa chỉ: Ấp G, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, tham gia chơi 01 phần hụi;

4. Bà Trịnh Thu J; địa chỉ: Ấp G, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, tham gia chơi 01 phần hụi;

5. Bà Bùi Thị K; địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, tham gia chơi 01 phần hụi;

6. Bà Thạch Thị L; địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, tham gia chơi 01 phần hụi;

7. Bà Nguyễn Thị Hồng M; địa chỉ: Ấp N, xã Long Thạnh, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, tham gia chơi 01 phần hụi;

8. Ông Nguyễn Vũ O; địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu, tham gia chơi 01 phần hụi.

Hiện nay, ông E, bà Ê còn nợ ông B, bà C số tiền hụi của dây hụi nêu trên là 49.500.000 đồng.

Dây hụi thứ hai: Mở ngày 30/10/2016 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi tháng khui một lần, trị giá 1.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 25 thành viên tham gia chơi 35 phần hụi; bà Ê và ông E tham gia chơi 01 phần hụi (danh sách hụi ghi tên Vợ E số thứ tự số 07); bà Ê và ông E góp hụi được 15 lần khui hụi được bao nhiêu tiền thì ông B, bà C không xác định được. Đến kỳ mở hụi thứ 16 (ngày 30/01/2018 âm lịch) bà Ê để số tiền 320.000 đồng hốt hụi và lĩnh được số tiền hụi là 27.920.000 đồng; giao tiền hụi trên vào ngày 16/02/2018 âm lịch (có làm biên nhận có chữ ký của bà Ê). Sau khi hốt, bà Ê góp lại tiền hụi chết 11 kỳ được tổng số tiền 11.000.000 đồng. Dây hụi trên chưa mãn nhưng đã đình hụi ngày 30/01/2019 (âm lịch). Sau khi đình hụi, ông B, bà C có đóng thay cho bà Ê, ông E tiền hụi chết cho bà Mai Thị P; địa chỉ: Ấp Q, xã R, huyện A, tỉnh Bạc Liêu 03 lần khui hụi được số tiền 3.000.000 đồng. Khi giao tiền hụi cho bà Mai Thị P thì không có làm biên nhận cho bà Mai Thị P ký nhận, trả cho bà Võ Thị S; địa chỉ:

p D, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu số tiền 27.000.000 đồng và trả cho bà Nguyễn Thị T; địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu số tiền hụi 15.000.000 đồng.

Còn lại các hụi viên chưa hốt hụi đã khởi kiện tại Tòa án và đã giải quyết xong để yêu cầu ông B, bà C trả tiền hụi; gồm có:

1. Ông Châu Văn U; địa chỉ: Ấp V, xã R, huyện A, tỉnh Bạc Liêu; khởi kiện 02 phần hụi;

2. Bà Nguyễn Thị H (do bà Nguyễn Thị H mua hụi của người nào thì ông B, bà C không nhớ); địa chỉ: Ấp G, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu; khởi kiện 01 phần hụi.

Hiện nay, bà Ê, ông E còn nợ ông B, bà C số tiền hụi 6.720.000 đồng.

Dây hụi thứ ba: Mở ngày 15/04/2016 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi tháng khui một lần, trị giá 1.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 34 thành viên tham gia chơi 35 phần hụi; bà Ê, ông E tham gia chơi 02 phần hụi (danh sách hụi ghi tên E số thứ tự số 20, 21); bà Ê, ông E góp hụi được 17 lần được bao nhiêu tiền thì ông B, bà C không xác định được. Đến kỳ mở hụi thứ 18 (ngày 15/9/2017 âm lịch) bà Ê để số tiền 320.000 đồng hốt 01 phần hụi; lĩnh được số tiền hụi là 27.200.000 đồng; giao tiền hụi trên có làm biên nhận có chữ ký của bà Ê. Sau khi hốt, bà Ê góp lại tiền hụi chết cho ông B, bà C nhưng ông B, bà C không còn nhớ bao nhiêu kỳ khui hụi và bao nhiêu tiền; đến ngày 15/02/2018 (âm lịch), bà Ê để số tiền 320.000 đồng hốt 01 phần hụi còn lại; lĩnh được số tiền hụi là 30.480.000 đồng; ông B, bà C giao tiền hụi trên có làm biên nhận có chữ ký. Dây hụi trên đã mãn vào ngày 15/1/2019 (âm lịch), ông B, bà C góp hụi thay cho bà Ê, ông E 01 lần hụi chết là 2.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thanh X; địa chỉ: Ấp D, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu. Hiện nay, bà Ê, ông E còn nợ ông B, bà C số tiền hụi 2.000.000 đồng.

Đng thời, ngày 16/01/2018 (âm lịch), ông B, bà C thừa nhận có vay của bà Ê, ông E số tiền 30.000.000 đồng; thỏa thuận lãi suất 01 tháng ông B, bà C trả cho bà Ê, ông E số tiền lãi suất 3.000.000 đồng/30.000.000 đồng; không có thỏa thuận thời hạn trả tiền gốc. Hiện nay, ông B, bà C vẫn còn nợ bà Ê, ông E số tiền vay 30.000.000 đồng. Do vậy, ông B, bà C và bà Ê, ông E thỏa thuận từ ngày 17/3/2018 (âm lịch), ông B, bà C lấy tiền lãi suất hàng tháng 3.000.000 đồng trả cho bà Ê, ông E để đóng tiền hụi chết cho 03 phần hụi của 02 dây hụi 1.000.000 đồng nêu trên. Tuy nhiên, ông B, bà C chỉ đồng ý lấy tiền lãi suất hàng tháng 3.000.000 đồng trả cho bà Ê, ông E để đóng tiền hụi chết cho bà Ê, ông E đến cuối tháng 12/2018 (âm lịch) là 38.000.000 đồng.

Ngoài ra, ông B và bà C thừa nhận ông B, bà C còn nợ bà Ê và ông E 02 phần hụi của dây hụi mùa mở ngày 30/8/2017 (âm lịch) và dây hụi tháng mở ngày 10/01/2018 (âm lịch); cụ thể như sau:

Dây hụi mở ngày 30/8/2017 (âm lịch), loại hụi mùa, 04 tháng khui một lần, trị giá 3.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 14 thành viên tham gia chơi 16 phần hụi. Bà Ê và ông E tham gia chơi 01 phần hụi (danh sách hụi ghi tên vợ E số thứ tự số 11). Dây hụi này mở được 05 kỳ khui hụi, bà Ê và ông E đóng tiền hụi của 05 kỳ khui hụi đầy đủ được tổng số tiền 7.740.000 đồng (lần khui hụi thứ nhất góp số tiền 1.800.000 đồng; lần khui thứ hai góp tiền hụi 1.500.000 đồng; lần khui hụi thứ ba góp tiền hụi 1.540.000 đồng; lần khui hụi thứ tư góp tiền hụi 1.400.000 đồng và lần khui hụi thứ năm góp tiền hụi 1.500.000 đồng). Hiện nay, ông B và bà C vẫn còn nợ bà Ê và ông E 05 kỳ khui hụi với tổng số tiền hụi 7.740.000 đồng.

Dây hụi mở ngày 10/01/2018 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi tháng khui một lần, trị giá 1.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 35 phần hụi. Bà Ê và ông E tham gia tham gia chơi 01 phần hụi. Dây hụi này mở được 12 kỳ khui hụi, bà Ê và ông E đóng tiền hụi của 12 kỳ đầy đủ cho ông B, bà C được tổng số tiền 5.660.000 đồng nhưng ông B, bà C không nhớ số tiền cụ thể của 12 kỳ là bao nhiêu, ông B và bà C chỉ xác định tổng số tiền khui hụi của 12 kỳ là 5.660.000 đồng. Bà Ê, ông E vẫn chưa hốt 01 phần hụi của dây hụi này. Hiện nay, ông B, bà C vẫn còn nợ bà Ê, ông E 12 kỳ khui hụi với tổng số tiền hụi 5.660.000 đồng.

Tại phiên tòa, ông B, bà C đã thay đổi yêu cầu khởi kiện đối với ông E, bà Ê. Nay ông B, bà C yêu cầu ông E, bà Ê có nghĩa vụ trả cho ông B, bà C tổng số tiền hụi của 03 dây hụi nêu trên tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 58.220.000 đồng và yêu cầu trả tiền lãi suất từ ngày 30/01/2019 âm lịch (ngày dương lịch là 06/3/2019) đến ngày 20/05/2022 với mức lãi suất 10%/năm là 11.919.664 đồng. Ông B, bà C đồng ý trả tiền hụi của 02 dây hụi của ông E, bà Ê là 13.400.000 đồng và số tiền vay 30.000.000 đồng. Nhưng ông B và bà C không đồng ý trả tiền lãi suất cho ông E, bà Ê đối với khoản tiền vay 30.000.000 đồng là 11.493.000 đồng mà ông B, bà C yêu cầu điều chỉnh lại lãi suất theo quy định của pháp luật để đối trừ vào số tiền vay còn nợ ông E, bà Ê.

Đng bị đơn bà Huỳnh Chúc Ê và ông Lý Quốc E trình bày: Ông E và bà Ê thừa nhận có tham gia chơi 03 dây hụi hụi do ông B và bà C làm chủ hụi, cụ thể như sau:

Dây hụi thứ nhất: Mở ngày 10/3/2017 (âm lịch), loại hụi mùa, 04 tháng khui một lần, trị giá 10.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 16 thành viên tham gia chơi 16 phần hụi; ông E và bà Ê tham gia chơi 01 phần hụi. Sau khi tham gia chơi hụi, ông E và bà Ê đã hốt một phần hụi nhưng vào kỳ mở hụi nào thì ông E và bà Ê không nhớ và cũng không nhớ để bao nhiêu tiền để hốt phần hụi; bà C và ông B đã giao tiền hụi cho ông E và bà Ê nhận tiền hụi và có ký tên nhận tiền hụi của ông B và bà C theo đúng như biên nhận tiền là 91.500.000 đồng. Sau khi hốt hụi, ông E và bà Ê có đóng tiền hụi cho ông B và bà C được 03 kỳ mở hụi với tổng số tiền 30.0000.000 đồng. Do ông B và bà C đình hụi và không đến gom tiền hụi nữa, chứ không phải ông E và bà Ê không đóng tiền hụi cho ông B và bà C như ông B và bà C trình bay. Ông E và bà Ê thừa nhận còn nợ ông B và bà C số tiền 49.500.000 đồng như lời trình bày của ông B và bà C.

Dây hụi thứ hai: Mở ngày 30/10/2016 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi tháng khui một lần, trị giá 1.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 35 thành viên tham gia chơi 35 phần hụi; bà Ê có trực tiếp tham gia chơi 01 phần hụi; ông E và bà Ê cũng đã hốt phần hụi xong nhưng hốt hụi vào kỳ mở hụi nào và để bao nhiêu tiền hụi thì ông E và bà Ê không còn nhớ nữa do thời gian quá lâu. Ông B và bà C đã giao đủ tiền hụi cho bà Ê trực tiếp nhận nhưng không nhớ là bao nhiêu tiền. Sau khi hốt hụi xong, ông E và bà Ê đã đóng tiền hụi đầy đủ cho ông B, bà C nhưng bà Ê, ông E không có chứng cứ gì chứng minh đã đóng hụi đầy đủ cho ông B và bà C nên ông E và bà Ê thừa nhận còn nợ ông B và bà C số tiền hụi 6.720.000 đồng.

Dây hụi thứ ba: Mở hụi ngày 15/4/2016 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi tháng khui một lần, trị giá 1.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 35 thành viên tham gia chơi 35 phần hụi. Bà Ê có trực tiếp tham gia chơi 02 phần hụi. Ông E, bà Ê cũng đã hốt 02 phần hụi xong rồi nhưng hốt hụi vào kỳ mở hụi nào và để bao nhiêu tiền hụi thì ông E, bà Ê không còn nhớ nữa do thời gian quá lâu. Ông B, bà C đã giao đủ tiền hụi cho bà Ê trực tiếp nhận nhưng không nhớ là bao nhiêu tiền. Sau khi hốt hụi xong, ông E, bà Ê đã đóng tiền hụi đầy đủ cho ông B, bà C nhưng bà Ê, ông E không có chứng cứ gì chứng minh đã đóng hụi đầy đủ cho ông B, bà C cho dây hụi nêu trên nên ông E, bà Ê thừa nhận còn nợ ông B, bà C số tiền 2.000.000 đồng như theo yêu cầu của ông B, bà C.

Đng thời, ông B, bà C còn nợ ông E, bà Ê tiền của hụi của 02 dây hụi mà ông E, bà Ê tham gia chơi mà chưa hốt hụi, cụ thể như sau:

Dây hụi mở ngày 30/8/2017 (âm lịch), loại hụi mùa, 04 tháng khui một lần, trị giá 3.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 16 thành viên tham gia chơi 16 phần hụi. Ông E, bà Ê tham gia chơi 01 phần hụi (danh sách hụi ghi tên vợ E số thứ tự số 11). Dây hụi này mở được 05 kỳ khui hụi thì ông E, bà Ê đều đóng tiền hụi của 05 kỳ khui hụi đầy đủ cho ông B, bà C với tổng số tiền 7.740.000 đồng. Ông E, bà Ê chưa hốt phần hụi của dây hụi này. Dây hụi này chưa đến ngày mãn hụi nhưng ông B, bà C đình hụi. Sau khi đình hụi vào tháng 4/2019 (âm lịch), các hụi viên còn phần hụi sống sẽ không tiếp tục ăn thua với nhau. Hiện nay, ông B, bà C còn nợ ông E, bà Ê số tiền hụi 7.740.000 đồng.

Dây hụi mở ngày 10/01/2018 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi tháng khui một lần, trị giá 1.000.000 đồng/01 chưng hụi, có 34 phần hụi. Ông E, bà Ê tham gia chơi 01 phần hụi (danh sách hụi ghi tên vợ E số thứ tự số 15). Dây hụi này mở được 12 kỳ khui hụi thì ông E, bà Ê đóng tiền hụi của 12 kỳ cho ông B, bà C với tổng số tiền 5.660.000 đồng. Dây hụi này chưa đến ngày mãn hụi nhưng ông B, bà C đình hụi. Sau khi đình hụi vào tháng 4/2019 (âm lịch), các hụi viên còn phần hụi sống sẽ không tiếp tục ăn thua với nhau. Hiện nay, ông B, bà C còn ông E, bà Ê số tiền của hụi là 5.660.000 đồng.

Vào ngày 16/01/2018 (âm lịch), ông B, bà C có vay của ông E, bà Ê số tiền 30.000.000 đồng; lãi suất hai bên thỏa thuận 500.000 đồng/tháng, ông B là người trực tiếp nhận tiền và ký biên nhận cho ông E, bà Ê. Ông B, bà C có đóng lãi suất ông E, bà Ê từ khi vay đến tháng 12/2018 (âm lịch) theo sự thừa nhận của ông B, bà C được số tiền 6.000.000 đồng. Từ tháng 01 năm 2019 (âm lịch) đến nay, ông B, bà C không có đóng tiền lãi suất cho ông E, bà Ê và cũng không có trả tiền gốc cho ông E, bà Ê. Hiện nay, ông B và bà C còn nợ tiền vay và tiền lãi của ông E và bà Ê, tiền nợ gốc là 30.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, ông E, bà Ê đồng ý trả cho ông B, bà C số tiền hụi và tiền lãi suất mà ông B, bà C có căn cứ để chấp nhận. Nhưng ông E, bà Ê yêu cầu trừ cấn qua lại giữa số tiền hụi của ông E, bà Ê còn nợ của ông B, bà C vào số tiền vay 30.000.000 đồng, tiền hụi của ông B, bà C còn nợ lại ông E, bà Ê; yêu cầu tính tiền lãi suất theo quy định pháp luật từ đến từ tháng 01/2019 (âm lịch) đến ngày 08/02/2022 là 11.493.000 đồng và yêu cầu ông B, bà C trả tiền lãi suất cho đến khi trả xong. Sau khi trừ cấn với nhau mà ông E, bà Ê còn nợ lại tiền hụi của ông B và bà C thì ông E và bà Ê đồng ý trả số tiền hụi còn nợ lại.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông B và bà C đối ông E, bà Ê. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông E, bà Ê đối với ông B, bà C; buộc ông E, bà Ê có nghĩa vụ thanh toán cho ông B, bà C số tiền 18.819.801 đồng.

- Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho ông B, bà C. Bà Ê, ông E phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Ông B, bà C khởi kiện ông E, bà Ê yêu cầu thanh toán tiền nợ hụi nên quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng dân sự về hụi theo quy định tại Điều 471 Bộ luật Dân sự; khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự. Ông E và bà Ê có địa chỉ cư trú tại ấp G, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bạc Liêu thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa ông B, bà C thay đổi yêu cầu khởi kiện đối với ông E, bà Ê về việc ông B, bà C yêu cầu ông E, bà Ê trả tiền hụi của dây hụi mùa 10.000.000 đồng mở ngày 10/3/2017 (âm lịch), dây hụi tháng 1.000.000 đồng mở ngày 30/10/2016 (âm lịch), dây hụi tháng 1.000.000 đồng mở ngày 15/4/2016 (âm lịch) và tiền lãi suất tính từ 30/01/2019 (âm lịch) đến ngày 11/02/2022 từ số tiền hụi và lãi suất là 80.523.500 đồng chỉ còn số tiền hụi và lãi suất là 70.139.664 đồng. Xét thấy, sự thay đổi yêu cầu khởi kiện của ông B, bà C đối với ông E, bà Ê nêu trên không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu và hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định của pháp luật. Căn cứ vào khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu thay đổi yêu cầu khởi kiện của ông B, bà C đối với ông E, bà Ê.

[3] Về nội dung: Ông E, bà Ê thừa nhận có tham gia chơi dây hụi mở ngày 10/3/2017 (âm lịch), loại hụi mùa, 04 tháng khui một lần; dây hụi mở ngày 30/10/2016 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi tháng khui một lần và dây hụi mở ngày 15/4/2016 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi tháng khui một lần. Ông B và bà C thừa nhận còn nợ bà Ê và ông E dây hụi mở ngày 10/01/2018 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi khui một lần; dây hụi mở ngày 30/8/2017 (âm lịch), loại hụi mùa, 04 tháng khui một lần và số tiền vay 30.000.000 đồng. Đây là tình tiết, sự kiện được ông E, bà Ê, ông B và bà C thừa nhận nên ông E, bà Ê, ông B và bà C không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ Luật Tố tụng dân sự.

[4] Ông B, bà C yêu cầu ông E, bà Ê trả tiền hụi của dây hụi mùa mở ngày 10/3/2017 (âm lịch) là 49.500.000 đồng, tiền hụi của dây tháng mở ngày 30/10/2016 (âm lịch) là 6.720.000 đồng và tiền hụi của dây hụi tháng mở ngày 15/4/2016 (âm lịch) là 2.000.000 đồng; tổng số tiền hụi là 58.220.000 đồng. Ông B, bà C đã chứng minh được thực hiện nghĩa vụ trả tiền hụi thay cho ông E, bà Ê của dây hụi mùa mở ngày 10/3/2017 (âm lịch) là 49.500.000 đồng và tiền hụi của dây hụi tháng mở ngày 15/4/2016 (âm lịch) là 2.000.000 đồng. Đồng thời, ông E, bà Ê cũng thừa nhận còn nợ ông B, bà C tiền hụi của dây hụi mùa mở ngày 10/3/2017 (âm lịch) là 49.500.000 đồng và tiền hụi của dây hụi tháng mở ngày 15/4/2016 (âm lịch) là 2.000.000 đồng. Tuy nhiên, đối với dây hụi tháng mở ngày 30/10/2016 (âm lịch), trị giá 1.000.000 đồng, ông B, bà C yêu cầu ông E, bà Ê trả số tiền hụi 6.720.000 đồng. Ông B và bà C cho rằng đã đóng thay phần hụi cho ông E, bà Ê cho bà Mai Thị P, có địa chỉ ở ấp Q, xã Đ, huyện A, tỉnh Bạc Liêu số tiền hụi 3.000.000 đồng. Tuy nhiên, việc giao nhận tiền hụi cho bà P không có làm biên nhận, qua xác minh biết được bà P đã chết vào tháng 4/2020. Người nhà của bà P không biết gì về giao dịch chơi hụi giữa bà P và ông B, bà C, chỉ biết bà P có tham gia chơi rất nhiều dây hụi do ông B và bà C làm chủ hụi; trước khi chết bà P cùng chủ hụi ông B, bà C đã tổng kết tất cả các dây hụi lại với nhau; ông B, bà C chỉ trả cho thân nhân của bà P được khoảng 03 tháng tiền hụi, mỗi tháng trả số tiền 5.000.000 đồng; khoảng hơn 02 năm nay ông B, bà C không còn trả tiền hụi cho thân nhân của bà P. Hiện nay, ông B, bà C vẫn chưa hoàn thành việc trả tiền hụi đầy đủ cho thân nhân bà P. Do ông B, bà C chưa hoàn thành nghĩa vụ đóng hụi của chủ hụi đối với bà P nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận việc ông B, bà C trả tiền hụi thay ông E, bà Ê cho bà P số tiền hụi 3.000.000 đồng của dây hụi này mà Hội đồng xét xử chỉ có căn cứ xác định ông B, bà C trả tiền hụi thay cho ông E, bà Ê số tiền hụi là 3.720.000 đồng. Từ đó, Hội đồng xét xử có căn cứ buộc ông E, bà Ê trả cho ông B, bà C tổng số tiền hụi của 03 dây hụi nêu trên là 55.220.000 đồng.

[5] Xét thấy, các dây hụi do ông B, bà C làm chủ là hụi có lãi, việc giao dịch hụi đã đình hụi, ông E và bà Ê còn nợ tiền hụi chết chưa góp cho ông B, bà C nên ông B, bà C yêu cầu ông E, bà Ê thanh toán tiền lãi theo quy định của pháp luật là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 30 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu phường và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, nên cần chấp nhận yêu cầu tính lãi của ông B, bà C. Tuy nhiên, dây hụi tháng mở ngày 15/4/2016 (âm lịch) ông E, bà Ê có nghĩa vụ trả cho ông B, C tiền hụi chết là 2.000.000 đồng và dây hụi tháng mở ngày 30/10/2016 (âm lịch), ông E, bà Ê có nghĩa vụ trả cho ông B, bà C số tiền hụi là 3.720.000 đồng; trong đó có số tiền hụi chết là 1.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử chỉ có căn cứ xác định số tiền hụi ông B, bà C được yêu cầu tính lãi suất của dây hụi mùa mở ngày 10/3/2017 (âm lịch) là 49.500.000 đồng và dây hụi tháng mở ngày 30/10/2016 (âm lịch) là 2.720.000 đồng; tổng cộng số tiền 52.220.000 đồng. Ông B và bà C yêu cầu tính lãi suất từ ngày 30/01/2019 âm lịch (ngày dương lịch là 06/3/2019) đến ngày 20/5/2022 là 38 tháng 14 ngày x 0,83%/tháng x 52.220.000 đồng = 16.672.446 đồng. Do vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ buộc ông E, bà Ê trả cho ông B, bà C tổng số tiền hụi và tiền lãi suất là 71.892.446 đồng.

[6] Ông B, bà C thừa nhận còn nợ ông E, bà Ê 01 chưng hụi sống mở ngày 30/8/2017 (âm lịch), loại hụi mùa, 04 tháng khui một lần, đã góp được 05 lần bằng số tiền 7.740.000 đồng, 01 chưng hụi sống mở ngày 10/01/2018 (âm lịch), loại hụi tháng, mỗi tháng khui một lần, đã góp được 12 lần bằng số tiền 5.660.000 đồng và nợ số tiền vay là 30.000.000 đồng; ông B, bà C đồng ý đối trừ vào tổng số tiền hụi mà ông E, bà Ê còn nợ ông B, bà C. Do vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định ông B, bà C còn nợ ông E, bà Ê số tiền hụi của 02 dây hụi nêu trên là 13.400.000 đồng và số tiền gốc là 30.000.000 đồng.

[7] Ông E, bà Ê yêu cầu ông B, bà C trả tiền lãi suất của số tiền vay từ ngày 16/01/2019 (âm lịch) đến ngày xét xử sơ thẩm và tiền lãi suất của số tiền hụi từ ngày 30/01/2019 (âm lịch) đến ngày xét xử sơ thẩm; ông B, bà C đồng ý trả cho ông E, bà Ê tiền lãi suất theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, ông B, bà C cho rằng đã thanh toán cho ông E, bà Ê tiền lãi suất của số tiền vay từ ngày 16/01/2018 (âm lịch) đến ngày 16/12/2018 (âm lịch) là 38.000.000 đồng; bằng hình thức lấy tiền lãi suất hàng tháng 3.000.000 đồng trừ vào số tiền hụi chết của 02 dây hụi mà ông E, bà Ê đã hốt và yêu cầu điều chỉnh lại tiền lãi suất của số tiền vay theo quy định của pháp luật. Ông E, bà Ê không thừa nhận có việc ông E, bà Ê với ông B, bà C có thỏa thuận lãi suất 10%/01 tháng mà ông E, bà Ê xác định ông B và bà C chỉ trả tiền lãi suất mỗi tháng trả 500.000 đồng từ ngày 16/01/2018 (âm lịch) đến ngày 16/12/2018 (âm lịch) được tổng số tiền 6.000.000 đồng. Nhưng ông B, bà C lại không có chứng cứ gì chứng minh đã thanh toán cho ông E, bà Ê số tiền lãi suất là 38.000.000 đồng nên Hội đồng xét xử có cơ sở xác định theo sự thừa nhận của ông E, bà Ê mỗi tháng ông B, bà C thanh toán tiền lãi suất là 500.000 đồng; được tổng số tiền lãi suất là 6.000.000 đồng. Tuy nhiên, lãi suất hai bên thỏa thuận là vượt mức quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông B, bà C, điều chỉnh lại mức lãi suất của số tiền vay 30.000.000 đồng theo mức lãi suất 10%/tháng từ ngày 16/01/2018 (âm lịch) đến ngày 16/12/2018 (âm lịch) bằng 30.000.000 đồng x 0,83%/tháng x 11 tháng = 2.739.000 đồng; ông B, bà C có nghĩa vụ thanh toán cho ông E, bà Ê số tiền lãi suất theo quy định của pháp luật là 2.739.000 đồng; được đối trừ vào số tiền lãi suất là 6.000.000 đồng mà ông B, bà C đã thanh toán cho ông E, bà Ê thì ông B, bà C còn được hoàn lại số tiền lãi suất là 3.261.000 đồng; số tiền lãi suất này được đối trừ vào số tiền vay gốc 30.000.000 đồng nên ông B, bà C còn nợ ông E, bà Ê số tiền vay 26.739.000 đồng. Ông E, bà Ê yêu cầu tính tiền lãi suất của số tiền vay 26.739.000 đồng từ ngày 16/01/2019 âm lịch (ngày dương lịch là 20/02/2019) đến ngày 20/5/2022 là 26.739.000 đồng x 39 tháng x 0,83%/tháng = 8.655.387 đồng. Ông E, bà Ê yêu cầu tính tiền lãi của số tiền hụi 13.400.000 đồng từ ngày 30/01/2019 âm lịch (ngày dương lịch 06/3/2019) đến ngày 20/5/2022 là 13.400.000 đồng x 38 tháng 14 ngày x 0,83%/tháng = 4.278.258 đồng. Như vậy, tổng số tiền ông B, bà C có nghĩa vụ thanh toán cho ông E, bà Ê là 53.072.645 đồng.

[7] Do vậy, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiên của ông B, bà C đối với ông E, bà Ê; chấp nhận yêu cầu phản tố của ông E, bà Ê đối với ông B, bà C. Sau khi đối trừ với số tiền ông B, C còn nợ ông E và bà Ê thì ông E, bà Ê còn phải thanh toán cho ông B, bà C số tiền bằng 71.892.446 đồng - 53.072.645 đồng = 18.819.801 đồng.

[8] Về án phí: Ông B, bà C phải chịu án phí sơ thẩm có giá ngạch đối với yêu cầu phản tố của ông E và bà Ê được Tòa án chấp nhận bằng 53.072.645 đồng x 5% = 2.653.632 đồng nhưng ông B, bà C là người cao tuổi và có đơn xin miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí nên Hội đồng xét xử chấp nhận miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho ông A, bà C theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Ông E, bà Ê phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với yêu cầu khởi kiện của ông B, bà C được Tòa án chấp nhận bằng 5% x 71.892.446 đồng = 3.594.622 đồng. Ông E, bà Ê đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.364.825 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0000841 ngày 11/02/2022 nên được chuyển thu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 1.364.825 đồng (Một triệu ba trăm sáu mươi bốn nghìn tám trăm hai mươi lăm đồng); ông E, bà Ê còn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm có ngạch là 2.229.797 đồng (Hai triệu hai trăm hai mươi chín nghìn bảy trăm chín mươi bảy đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Bạc Liêu.

[9] Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 463, Điều 466, Điều 468, khoản 2 Điều 469, Điều 471 của Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 15, khoản 3 Điều 16, Điều 30 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu phường; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm b khoản 1 Điều 24 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn B, bà Cao Thị C đối với ông Lý Quốc E và bà Huỳnh Chúc Ê về việc tranh chấp hụi.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Lý Quốc E, bà Huỳnh Chúc Ê đối với ông Nguyễn Văn B, bà Cao Thị C.

3. Buộc ông Lý Quốc E, bà Huỳnh Chúc Ê có nghĩa vụ thanh toán cho ông Nguyễn Văn B, bà Cao Thị C số tiền 18.819.801 đồng (Mười tám triệu tám trăm mười chín nghìn tám trăm lẻ một đồng).

4. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch cho ông Nguyễn Văn B, bà Cao Thị C. Ông Lý Quốc E, bà Huỳnh Chúc Ê phải nộp 3.594.622 đồng (Ba triệu năm trăm chín mươi bốn nghìn sáu trăm hai mươi hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Bạc Liêu. Ông Lý Quốc E, bà Huỳnh Chúc Ê đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm số tiền 1.364.825 đồng (Một triệu ba trăm sáu mươi bốn nghìn tám trăm hai mươi lăm đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí số 0000841 ngày 11/02/2022 nên được chuyển thu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 1.364.825 đồng (Một triệu ba trăm sáu mươi bốn nghìn tám trăm hai mươi lăm đồng); ông Lý Quốc E, bà Huỳnh Chúc Ê còn phải nộp án phí dân sự sơ thẩm có ngạch là 2.229.797 đồng (Hai triệu hai trăm hai mươi chín nghìn bảy trăm chín mươi bảy đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, tỉnh Bạc Liêu.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

7. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hụi số 39/2022/DS-ST

Số hiệu:39/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Giá Rai - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về