Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 99/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 99/2022/DS-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 342/2021/TLST - DS ngày 02 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/QĐXXST – DS ngày 16 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 278/2022/QĐ-ST ngày 06/4/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị N. Sinh năm: 1988 (có mặt). Địa chỉ: ấp 10A, xã T, huyện T, Cà Mau

- Bị đơn: Bà Nguyễn Bích P (vắng mặt). Địa chỉ: ấp 10A, xã T, huyện T, Cà Mau

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Huỳnh Thị N trình bày:

Bà có đứng tên chơi 01 chân hụi 5.000.000 đồng hốt ngày 06/5/2012, gồm 21 chân, số tiền hốt hụi là 67.500.000 đồng. Sau đó bà N đưa hết số tiền này cho bà Nguyễn Bích P mượn và bà P hứa sẽ đóng hụi chết cho bà mỗi tháng 5.000.000 đồng, đóng đến 20 lần là hết, sau khi đưa tiền xong thì đến năm 2013 bà P trả cho bà được 1.000.000 đồng, sau đó bà P bỏ đi khỏi địa phương đến tết nguyên đáng vừa rồi thì bà P có về địa phương, địa phương có tiến hành hòa giải thì bà P thừa nhận có thiếu bà N 67.500.000 đồng, có trả được 1.000.000 đồng, tiền này là tiền 1 vay chứ không phải tiền hụi.

Nay bà yêu cầu bà P trả cho bà số tiền vay 67.500.000 đồng và lãi suất là 7,4% một năm từ ngày 06/5/2012 cho đến ngày xét xử sơ thẩm.

- Tại biên bản hòa giải tranh chấp tiền hụi ngày 12/01/2022 bà Nguyễn Bích P trình bày: Bà P thừa nhận có thiếu bà N 67.500.000 đồng, có trả được 1.000.000 đồng, tiền này là tiền vay chứ không phải tiền hụi, bà Hồi không có liên quan gì đến việc này, bà P hứa qua tết đi làm sẽ trả tối thiểu ít nhất là mỗi tháng 1.000.000 đồng, nếu làm có nhiều sẽ trả thêm.

- Bị đơn bà Nguyễn Bích P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt và không có yêu cầu gì đối với nội dung nguyên đơn khởi kiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Xét việc vắng mặt của bà P được Tòa án tống đạt hợp lệ đến lần thứ 02 để tham gia hòa giải và phiên tòa sơ thẩm nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 Điều 207 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án không tiến hành hòa giải được và Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà P là đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa nguyên đơn xác định có đứng tên chơi 01 chân hụi 5.000.000 đồng hốt ngày 06/5/2012, gồm 21 chân, số tiền hốt hụi là 67.500.000 đồng. Sau đó bà N đưa hết số tiền này cho bà Nguyễn Bích P mượn và bà P hứa sẽ đóng hụi chết cho bà mỗi tháng 5.000.000 đồng, đóng đến 20 lần là hết, sau khi đưa tiền xong thì đến năm 2013 bà P trả cho bà được 1.000.000 đồng, sau đó bà P bỏ đi khỏi địa phương đến tết nguyên đáng vừa rồi thì bà P có về địa phương, địa phương có tiến hành hòa giải thì bà P thừa nhận có thiếu bà N 67.500.000 đồng, có trả được 1.000.000 đồng, tiền này là tiền vay chứ không phải tiền hụi.

- Tại biên bản hòa giải tranh chấp tiền hụi ngày 12/01/2022 bà Nguyễn Bích P trình bày: Bà P thừa nhận có thiếu bà N 67.500.000 đồng, có trả được 1.000.000 đồng, tiền này là tiền vay chứ không phải tiền hụi, bà Hồi không có liên quan gì đến việc này, bà P hứa qua tết đi làm sẽ trả tối thiểu ít nhất là mỗi tháng 1.000.000 đồng, nếu làm có nhiều sẽ trả thêm.

Chứng cứ nguyên đơn cung cấp là 01 tờ biên nhận nợ có nội dung: “bà Nguyễn Bích P mượn tiền hốt hụi và bà P hứa sẽ đóng hụi chết cho bà mỗi tháng 5.000.000 đồng, đóng đến 20 lần là hết” Biên bản hòa giải tranh chấp tiền hụi ngày 12/01/2022: Bà P thừa nhận có thiếu bà N 67.500.000 đồng, có trả được 1.000.000 đồng, tiền này là tiền vay chứ không phải tiền hụi, bà Hồi không có liên quan gì đến việc này, bà P hứa qua tết đi làm sẽ trả tối thiểu ít nhất là mỗi tháng 1.000.000 đồng, nếu làm có nhiều sẽ trả thêm, đều này cho thấy bà P thừa nhận các chứng cứ bà N giao nộp cho Tòa án là đúng và chấp nhận còn nợ lại nguyên đơn số tiền 66.500.000 đồng đúng như nội dung nguyên đơn khởi kiện. Như vậy, giữa bà N và bà P có giao kết hợp đồng vay với nhau, số tiền cho vay lấy từ tiền hốt hụi của bà N. Bà N là người đứng tên chơi hụi, đóng hụi, hốt hụi, nhận tiền hụi và không có tranh chấp hợp đồng hụi với chủ hụi nên không xem xét. Sau khi kết thúc hợp đồng hụi bà N đã thanh toán đầy đủ cho chủ hụi và yêu cầu bà P hoàn trả lại số tiền vay 67.500.000 đồng và lãi suất là 7,4% một năm từ ngày 06/5/2012 cho đến ngày xét xử sơ thẩm.

Xét thấy, bà P là người vi phạm nghĩa vụ với bà N, làm cho bà N bị thiệt hại nên bà N kiện đòi lại số tiền bị thiệt hại 66.500.000 đồng là có căn cứ, được chấp nhận. Mức lãi suất 7,4% mà nguyên đơn yêu cầu đối với bị đơn là thấp hơn so với quy định của pháp luật, điều này có lợi cho bị đơn nên có cơ sở được chấp nhận.

Lãi suất được tính như sau:

Ngày 06/5/2012 bà P nhận tiền, đến ngày 06/5/2013 trả được 1.000.000 đồng, lãi suất 67.500.000 đồng x 7,4%/ 01 năm = 4.995.000 đồng.

Từ ngày 06/5/2013 đến ngày 29/4/2022 (ngày xét xử sơ thẩm) là:

66.500.000 đồng x 7,4%/ 01 năm = 4.921.000 đồng. 08 năm 11 tháng 23 ngày là 44.192.000 đồng.

Tổng số tiền lãi là 44.192.000 đồng + 4.995.000 đồng = 49.187.300 đồng. Tổng tiền vốn và tiền lãi là: 66.500.000 đồng + 49.187.300 đồng = 115.687.300 đồng.

Như vậy bà Nguyễn Bích P phải có nghĩa vụ trả cho bà Huỳnh Thị N số tiền vốn và lãi là 115.687.300 đồng.

[3] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, nên bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật số tiền 5.784.000 đồng. Nguyên đơn có dự nộp án phí được nhận lại.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 207, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

1. Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị N. Buộc bà Nguyễn Bích P phải có nghĩa vụ hoàn trả lại cho bà Huỳnh Thị N số tiền 115.687.300 đồng (Một trăm mười lăm triệu sáu trăm tám mươi bảy ngàn ba trăm đồng).

Kể từ ngày bà N có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bà P còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Án phí dân sự sơ thẩm bà Nguyễn Bích P phải chịu 5.784.000 đồng, chưa nộp. Bà Huỳnh Thị N được nhận lại số tiền dự nộp án phí là 4.389.000 đồng tại biên lai thu số 0004113 ngày 02/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 99/2022/DS-ST

Số hiệu:99/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về