Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 48/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 48/2022/DS-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 330/2022/TLST-DS ngày 12 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2022/QĐXXST-DS ngày 12 tháng 5 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2022/QĐST-DS ngày 11 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ.

Địa chỉ: Tháp B, 35 H, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Đức T - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nông Hà H - Giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh Buôn Hồ.

Người đại diện theo ủy quyền lại ông Nguyễn Cao T - Phó giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ - Chi nhánh B - Phòng giao dịch K - có mặt.

Địa chỉ: 105 N, thị trấn K, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị đơn: Ông Y T - vắng mặt, bà H N - có mặt.

Địa chỉ: Buôn A, xã E, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk. Người phiên dịch cho bà H N: Ông Y K - có mặt.

Địa chỉ: Buôn A, xã E, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà H T - vắng mặt.

Địa chỉ: Buôn A, xã E, huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện của nguyên đơn, trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền lại của nguyên đơn là ông Nguyễn Cao T trình bày:

Vào ngày 16/01/2020, ông Y T, bà H N có ký kết với Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ hợp đồng tín dụng số 01/2020/6902639/HDTD vay số tiền gốc 380.000.000 đồng (Ba trăm tám mươi triệu đồng), thời hạn vay 12 tháng, lãi suất trong hạn 11,9%/năm và được điều chỉnh khi có sự thay đổi lãi suất cho vay theo từng thời điểm do Ngân hàng quyết định, lãi suất quá hạn bằng 150 % lãi suất trong hạn, lãi chậm trả là 10%/năm trên số lãi chậm trả, mục đích vay để sửa nhà, làm sân, cổng, hàng rào, và tiêu dùng gia đình.

Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ đã giải ngân đủ số tiền vay 380.000.000 đồng (Ba trăm tám mươi triệu đồng) cho ông Y T, bà H N vào ngày 16/01/2020. Ông Y T, bà H N đã trả được cho Ngân hàng số tiền gốc 28.000.000 đồng vào ngày 03/6/2021 và lãi phát sinh từ ngày vay đến ngày 18/01/2021 là 33.822.082 đồng.

Để đảm bảo cho các khoản vay ông Y T, bà H N đã thế chấp cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ diện tích đất 15.450 m2 và tài sản gắn liền với đất tại xã Ea Hồ, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk, tại thửa đất số 184, 185, 186, 24, tờ bản đồ số 30; thửa đất số 62, tờ bản đồ số 30. Đất đã được Ủy ban nhân dân huyện Krông Năng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 362571 mang tên hộ ông Y T. Tài sản bảo đảm được thế chấp theo hợp đồng thế chấp bất động sản đất số 01/2020/6902639/HĐBĐ ngày 16/01/2020 giữa hộ ông Y T, bà H N với Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ.

Khoản vay của ông Y T, bà H N đã quá hạn từ ngày 18/01/2021 đến nay. Ngân hàng đã nhiều lần yêu cầu ông Y T, bà H N phải trả nợ nhưng ông Y T, bà H N không trả được nợ. Nay Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ yêu cầu ông Y T, bà H N phải thực hiện các nghĩa vụ sau:

Buộc ông Y T, bà H N phải trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền tạm tính đến ngày 01/7/2022 là 458.262.351 đồng (Bốn trăm năm mươi tám triệu hai trăm sáu mươi hai nghìn ba trăm năm mươi mốt đồng), trong đó: Nợ gốc 352.000.000 đồng, lãi trong hạn 73.596.121 đồng, lãi quá hạn 30.975.211 đồng, lãi chậm trả đối với lãi 1.691.019 đồng.

Buộc ông Y T, bà H N phải chịu lãi suất phát sinh từ ngày 02/7/2022 đến khi thanh toán hết số nợ gốc 352.000.000 đồng cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ.

Trường hợp ông Y T, bà H N không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ thì Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ đề nghị xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

* Bị đơn bà H N tại phiên tòa trình bày: Bà H N là vợ của ông Y T. Bà H N và ông Y T có vay của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền gốc 380.000.000 đồng (Ba trăm tám mươi triệu đồng), thời hạn vay 12 tháng, lãi suất trong hạn 11,9%/năm, lãi suất quá hạn bằng 150 % lãi suất trong hạn, lãi chậm trả là 10%/năm trên số lãi chậm trả, mục đích vay để sửa nhà, làm sân, cổng, hàng rào, và tiêu dùng gia đình.

Để đảm bảo cho các khoản vay ông Y T, bà H N đã thế chấp cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ diện tích đất 15.450 m2 và tài sản gắn liền với đất tại thửa đất số 184, 185, 186, 24, tờ bản đồ số 30; thửa đất số 62, tờ bản đồ số 30, đất tọa lạc tại xã E, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

Ông Y T, bà H N đã trả được cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền gốc 28.000.000 đồng và lãi phát sinh 33.822.082 đồng. Ông Y T, bà H N có hoàn cảnh khó khăn, không thể trả nợ được cho Ngân hàng theo thời gian thỏa thuận. Bà H N đề nghị Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ cho ông Y T, bà H N được tự bán tài sản thế chấp để trả nợ. Khi nào có người mua tài sản thế chấp thì bà cùng ông Y T sẽ trả nợ cho Ngân hàng. Trường hợp ông Y T, bà H N không trả được nợ hoặc trả không đủ nợ cho Ngân hàng thì bà đồng ý giao tài sản đã thế chấp cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ xử lý để thu hồi nợ.

* Bị đơn ông Y T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà H T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt không có lý do tại các buổi làm việc. Do vậy, Tòa án không thu thập được chứng cứ đối với ông Y T, Bà H Thu Mlô và không tiến hành hòa giải giữa các đương sự theo quy định của pháp luật được.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã chấp hành theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Đối với đại diện theo ủy quyền lại của nguyên đơn là ông Nguyễn Cao T đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn bà H N đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Y T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Bà H T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa là không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ được quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Căn cứ nội dung, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp thì đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, bị đơn ông Y T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H’ T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không có lý do tại phiên tòa. Vì vậy, Tòa án căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và Điều 288 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông Y T, bà H’ T.

[3]. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

[3.1] Về số tiền vay và nghĩa vụ trả nợ: Căn cứ vào hợp đồng tín dụng do các bên đã ký kết với nhau thì đã có căn cứ khẳng định: Vào ngày 16/01/2020, ông Y T, bà H N có vay của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền gốc 380.000.000 đồng, thỏa thuận lãi phát sinh cùng các nội dung khác có liên quan, trong đó có mục đích vay về để để sửa nhà, làm sân, cổng, hàng rào, và tiêu dùng gia đình.

Ông Y T, bà H N đã trả được cho Ngân hàng gốc 28.000.000 đồng và lãi phát sinh là 33.822.082 đồng, khoản vay này đã quá hạn từ ngày 18/01/2021 đến nay. Số tiền gốc còn nợ lại của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ đối với hợp đồng tín dụng này là 352.000.000 đồng.

Ông Y T là người trực tiếp ký kết hợp đồng tín dụng và thực hiện các giao dịch khác với Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ. Bà H N có ký văn bản ủy quyền để cho ông Y T thực hiện các thủ tục vay vốn tại Ngân hàng, đồng thời bà bà H N có ký vào các giấy đề nghị vay vốn cũng như hợp đồng thế chấp bất động sản. Đây là nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, bên cạnh đó mục đích vay vốn tại Ngân hàng về nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Do đó, Hội đồng xét xử buộc ông Y T và bà H N phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ là phù hợp với quy định tại Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình.

Xét quan hệ pháp luật dân sự giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội và phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng. Vì vậy, quyền và nghĩa vụ của các bên được pháp luật bảo vệ. Đến nay đã quá thời hạn trả nợ đối với số tiền gốc 352.000.000 đồng theo thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng nhưng ông Y T, bà H N không trả gốc và lãi cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ. Ông Y T, bà H N đã vi phạm về nghĩa vụ trả nợ theo quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ, buộc ông Y T, bà H N phải trả nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ tổng số tiền tính đến ngày xét xử sơ thẩm (01/7/2022) gồm: Số tiền gốc 352.000.000 đồng, lãi trong hạn 73.596.121 đồng, lãi quá hạn 30.975.211 đồng, lãi chậm trả đối với lãi 1.691.019 đồng.

Đồng thời, buộc ông Y T, bà H N còn phải chịu lãi suất phát sinh tính từ ngày 02/7/2022 cho đến khi ông Y T, bà H N trả hết số nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ theo mức lãi suất quá hạn của hợp đồng tín dụng 01/2020/6902639/HĐTD ngày 17/01/2020.

[3.2] Về xử lý tài sản thế chấp: Căn cứ vào hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2020/6902639/HĐBĐ ngày 16/01/2020 được ông Y T, bà H N cùng các thành viên trong hộ có thế chấp cho Ngân hàng diện tích đất 15.450 m2 và tài sản gắn liền với đất tại xã Ea Hồ, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk, tại thửa đất số 184, 185, 186, 24, tờ bản đồ số 30; thửa đất số 62, tờ bản đồ số 30. Đất đã được Ủy ban nhân dân huyện Krông Năng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 362571 mang tên hộ ông Y T.

Theo nội dung thỏa thuận của hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đã ký giữa các bên có thể hiện Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp khi ông Y T, bà H N cùng các thành viên trong hộ gia đình vi phạm các thỏa thuận có liên quan. Do đó, Hội đồng xét xử cần xử lý tài sản mà hộ ông Y T, bà H N đã thế chấp tại Ngân hàng để thu hồi nợ trong trường hợp ông Y T, bà H N không trả nợ hoặc không trả đủ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ theo quy định của pháp luật.

[4]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Y T, bà H N là người dân tộc thiểu số sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có đơn miễn án phí được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm nên được trả lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 3 Điều 144; khoản 1 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Điều 271; Khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 463; khoản 1 Điều 466; khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng;

Căn cứ đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ.

Buộc ông Y T, bà H N phải trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ tổng số tiền 458.262.351 đồng (Bốn trăm năm mươi tám triệu hai trăm sáu mươi hai nghìn ba trăm năm mươi mốt đồng), trong đó: Nợ gốc 352.000.000 đồng, lãi phát sinh 106.262.351 đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (ngày 02/7/2022) cho đến khi thi hành án xong, ông Y T, bà H N còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quá hạn mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 01/2020/6902639/HĐTD ngày 17/012020.

Sau khi ông Y T, bà H N trả hết nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ thì Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ có nghĩa vụ trả lại cho ông Y T, bà H N giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 362571 do Ủy ban nhân dân huyện Krông Năng cấp ngày 27/12/2002 cho hộ ông Y T.

Trường hợp ông Y T, bà H N không trả hoặc trả không hết nợ cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ thì Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ được quyền yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xử lý tài sản mà hộ ông Y T, bà H N đã thế chấp theo theo hợp đồng thế chấp bất động sản số 01/2020/6902639/HĐBĐ ngày 16/01/2020 để thu hồi nợ theo quy định.

2. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho ông Y T, bà H N.

Trả lại cho cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Đ số tiền 9.841.000 (Chín triệu tám trăm bốn mươi mốt nghìn đồng) đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số 60AA/2021/0003109 ngày 22/10/2021.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 48/2022/DS-ST

Số hiệu:48/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về