Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 444/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, TP.HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 444/2022/DS-ST NGÀY 21/07/2022 VỀ TRANH CHP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 151/2021/TLST-DS ngày 06/5/2021, về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 142/2022/QĐXXST-DS ngày 26/5/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 134/2022/QĐST-DS ngày 22/6/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đặng Thị Thanh Đ, năm 1985; thường trú: 107/7E ấp A, xã X, huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh; địa chỉ liên lạc: 2/79A ấp T, xã T, huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Bị đơn: Ông Đặng Tô Thái H, sinh năm 1991; địa chỉ: 60D đường Đ, ấp A, xã X, huyện Hóc Môn, Tp.Hồ Chí Minh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/4/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án,nguyên đơn là bà Đặng Thị Thanh Đ trình bày:

Bà Đặng Thị Thanh Đ nhiều lần cho ông Đặng Tô Thái H vay tiền từ ngày 30/5/2019 đến ngày 19/5/2020, với tổng số tiền là 250.000.000 đồng, ông H đã trả lại cho bà 20.000.000 đồng. Ngày 19/5/2020, ông H viết Giấy xác nhận khoản nợ trên và cam kết sau 03 tháng sẽ trả lại nhưng không thực hiện. Vì vậy, bà khởi kiện yêu cầu ông H trả lại số tiền còn nợ là 230.000.000 đồng, không yêu cầu ông H trả tiền lãi. Bà đã ly hôn từ năm 2010 và chưa đăng ký kết hôn với ai, nên đây là khoản tiền cá nhân, không liên quan đến bất cứ người nào khác và cá nhân bà tự chịu trách nhiệm.

Tại bản tự khai ngày 02/6/2021, bị đơn là ông Đặng Tô Thái H trình bày:

Ngày 19/5/2020 ông H có vay của bà Đ số tiền hơn 200 triệu, ông phải trả lại số tiền này trong tháng 5/2021 nhưng do dịch Covid nên ông không không có khả năng trả nợ. Ông trả tiền lãi cho bà Đ mỗi tháng 6.000.000 đồng đến tháng 3/2021 thì không còn khả năng trả do dịch Covid bị cách ly. Sau khi hết dịch, làm ăn lại được thì ông sẽ trả cho bà Đ mỗi tháng khoảng 6.000.000 đồng, ông cần 03 năm để trả nợ cho bà Đ. Ông chưa đăng ký kết hôn nên đây là nợ cá nhân, không liên quan đến người khác. Ông đề nghị Tòa thông báo các vấn đề vụ án bằng tin nhắn SMS qua số điện thoại 0909379113 để ông còn xin nghỉ làm.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà Đặng Thị Thanh Đ xác nhận đã nhận của ông H tiền lãi tổng cộng là 60.000.000 đồng, đồng ý cho lại ông H 30.000.000 đồng trong số tiền lãi đã nhận, trừ vào nợ gốc. Do đó, bà Đ cầu ông Đặng Tô Thái H phải trả lại số tiền còn nợ là 200.000.000 đồng, không yêu cầu tính tiền lãi. Trường hợp ông H đồng ý trả 200.000.000 đồng và thực sự khó khăn thì bà đồng ý cho ông H trả mỗi tháng 5.000.000 đồng cho đến khi trả xong, trường hợp ông H không đồng ý trả 200.000.000 đồng thì bà yêu cầu ông H trả ngay số tiền còn nợ.

Bị đơn ông Đặng Tô Thái H xác nhận còn nợ bà Đ số tiền 230.000.000 đồng theo giấy xác nhận ngày 19/5/2020 và đúng như yêu cầu của bà Đ, nhưng chỉ có khả năng trả cho bà Đ số tiền 100.000.000 đồng bằng cách mỗi tháng trả 5.000.000 đồng, xin bà Đ cho số tiền còn lại là 130.000.000 đồng.

Phát biểu ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng vi phạm thời hạn giao Thông báo về việc thụ lý vụ án cho bị đơn; các đương sự đã được bảo đảm thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về việc giải quyết vụ án: theo giấy xác nhận ngày 19/5/2020 và sự thừa nhận của các bên, có căn cứ xác định ông H vay của bà Đ số tiền 230.000.000 đồng. Tại phiên tòa, bà Đ đồng ý trừ 30.000.000 đồng tiền lãi đã nhận vào nợ gốc, yêu cầu ông H trả 200.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi; ông H thừa nhận còn nợ bà Đ 230.000.000 đồng nhưng đề nghị trả 100.000.000 đồng bằng cách mỗi tháng trả 5.000.000 đồng nhưng không được bà Đ chấp nhận nên không có cơ sở xem xét. Ông H vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo giấy nhận nợ ngày 19/5/2020 nên bà Đ yêu cầu trả 200.000.000 đồng, không tính lãi là có lợi cho ông H. Căn cứ vào các Điều 463, 466 của Bộ luật dân sự 2015, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại khoản tiền vay còn nợ; Bị đơn đang cư trú tại huyện Hóc Môn. Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, xác định đây là tranh chấp hợp đồng vay tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về yêu cầu khởi kiện trong vụ án: Bà Đ khởi kiện yêu cầu ông H phải thanh toán số tiền còn nợ là 230.000.000 đồng, không yêu cầu trả tiền lãi. Bị đơn không có yêu cầu phản tố. Các đương sự không có yêu cầu gì khác.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Tại Giấy xác nhận ngày 19/5/2020, có nội dung: ông Đặng Tô Thái H xác nhận vay của bà Đặng Thị Thanh Đ tổng cộng 230.000.000 đồng, sau 03 tháng sẽ trả lại. Tại phiên tòa, ông H xác nhận còn nợ bà Đ tổng số tiền 230.000.000 đồng đúng như nội dung Giấy xác nhận ngày 19/5/2020 và trình bày của bà Đ nên đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ông H phải trả lại cho bà Đ số tiền này sau 03 tháng nhưng đến nay chưa trả là vi phạm nghĩa vụ trả nợ, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Đ.

Tại phiên tòa, ông H đề nghị trả cho bà Đ số tiền 100.000.000 đồng bằng cách mỗi tháng trả 5.000.000 đồng cho đến khi trả xong, xin bà Đ cho ông số tiền còn lại là 130.000.000 đồng. Đề nghị này của ông H không được bà Đ chấp nhận nên không có cơ sở xem xét.

[4] Về tiền lãi: tại phiên tòa, bà Đ trình bày và được ông H xác nhận bà Đ đã nhận của ông H tiền lãi tổng cộng 60.000.000 đồng là không vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015. Tuy nhiên, bà Đ đồng ý cho lại ông H 30.000.000 đồng trong 60.000.000 đồng tiền lãi đã nhận để trừ vào nợ gốc nên ghi nhận sự tự nguyện này của bà Đ. Vì vậy, việc bà Đ yêu cầu ông H trả nợ gốc còn lại là 200.000.000 đồng và không yêu cầu tính tiền lãi là có lợi cho ông H.

[5] Từ nhận định tại phần [3] và [4] nêu trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Đặng Thị Thanh Đ, buộc ông Đặng Tô Thái H phải thanh toán cho bà Đ số tiền 200.000.000 đồng theo Giấy xác nhận ngày 19/5/2020.

[6] Ý kiến phát biểu tại phiên tòa về việc giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn là cùng với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu tiền án phí có giá ngạch đối với số tiền phải trả cho nguyên đơn, theo quy định tại khoaûn 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 266; Khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 463; Điều 466; Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đặng Thị Thanh Đ:

Buộc ông Đặng Tô Thái H phải thanh toán cho bà Đặng Thị Thanh Đ số tiền 200.000.0000 đồng, theo Giấy xác nhận ngày 19 tháng 5 năm 2020, giữa người vay tiền là ông Đặng Tô Thái H và người cho vay tiền là bà Đặng Thị Thanh Đ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và bà Đặng Thị Thanh Đ có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Đặng Tô Thái H chưa thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Đặng Tô Thái H phải chịu số tiền 10.000.000 đồng, thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền. Trả lại cho bà Đặng Thị Thanh Đ số tiền 5.750.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0075054 ngày 06/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hóc Môn.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

373
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 444/2022/DS-ST

Số hiệu:444/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về