TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 402/2022/DS-PT NGÀY 21/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 21 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 156/DSPT ngày 30/5/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 146/2022/DS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2464/QĐXXPT-DS ngày 23 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
Nguyên đơn:
1/ Ông Phạm Minh Đ, sinh năm xxxx 2/ Bà Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm xxxx (xin vắng mặt) Cùng địa chỉ: xxxx Tỉnh lộ 10, khu phố 2, phường Tân Tạo A, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện hợp pháp theo ủy quyền của ông Đ: Ông Nguyễn Thanh T1, sinh năm: xxxx (có mặt) Địa chỉ: xxx Tên Lửa, phường Bình Trị Đông B, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền ngày 10/3/2020)
Bị đơn:
1/ Ông Hà Kiến P, sinh năm xxxx
2/ Bà Lê Thị Thu H2, sinh năm xxxx Cùng địa chỉ: xxx Tỉnh lộ 10, phường Tân Tạo, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện hợp pháp theo ủy quyền: Bà Lê Thị Thu H3, sinh năm: xxxx Địa chỉ: Số xxx đường số 8, phường Bình Hưng Hòa B, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. (Giấy ủy quyền ngày 29/6/2022). (có mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Thanh T2, sinh năm xxxx (có mặt).
Địa chỉ: Số xxxx Tỉnh lộ 10, phường Tân Tạo, quận Bình T, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 18/3/2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn và người đại diện hợp pháp theo ủy quyền trình bày:
Ông Đ và bà H1 quen biết ông Hà Kiến P và bà Lê Thị Thu H2 thông qua ông Lê Thanh T2. Vào ngày 10/7/2019, giữa 2 bên có ký Hợp đồng vay tiền và thế chấp nhà ở và quyền sử dụng đất số 010885 tại Văn phòng công chứng Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo yêu cầu của bị đơn, ngay sau khi ký hợp đồng nêu trên, phía nguyên đơn đã giao số tiền 500.000.000 đồng cho ông Lê Thanh T2 để ông T2 giao lại cho ông P và bà H2. Ông P và bà H2 đã giao Giấy chứng nhận số CL447835 do Ủy ban nhân dân quận Bình Tân cấp ngày 27/7/2018 cho ông Đ, bà H1. Nay phía nguyên đơn yêu cầu phía bị đơn phải có trách nhiệm trả nợ gốc 500.000.000 đồng; lãi trong hạn 60.000.000 đồng; lãi quá hạn (2,4%/tháng) tạm tính đến ngày 7/4/2022 là 300.000.000 đồng. Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu phía nguyên đơn trả lại giấy chứng nhận, phía nguyên đơn chỉ đồng ý khi nào phía bị đơn trả hết toàn bộ số tiền trên.
Bị đơn là ông Hà Kiến P, bà Lê Thị Thu H2 có đại diện hợp pháp theo ủy quyền là bà Lê Thị Thu H3 trình bày:
Ngày 10/7/2019, do cần tiền để giải quyết việc gia đình nên ông P và H2 có ký kết hợp đồng vay tiền và thế chấp nhà ở và quyền sử dụng đất với số tiền vay là 500.000.000 đồng, lãi suất là 1,6%/tháng, thời hạn vay đến hết ngày 29/2/2020, trả lãi vào ngày 10 dương lịch mỗi tháng. Tại phòng công chứng, phía bị đơn đã giao bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất CL447835, số vào sổ cấp GCN: CH09319 do Ủy ban nhân dân quận Bình Tân cấp ngày 27/7/2018. Sau khi ký hợp đồng, phía nguyên đơn không giao tiền cho ông P và bà H2 như thỏa thuận trong hợp đồng nên phía ông P và bà H2 không đóng lãi. Do bị đơn không nhận 500.000.000 đồng, nên không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bị đơn có yêu cầu phản tố, yêu cầu nguyên đơn trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất CL447835, số vào sổ cấp GCN: CH09319 do Ủy ban nhân dân quận Bình Tân cấp ngày 27/7/2018. Trong trường hợp nguyên đơn không trả giấy chứng nhận thì phía bị đơn được quyền liên hệ cơ quan chức năng cấp giấy theo quy định.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lê Thanh T2 trình bày:
Ông và vợ chồng ông Phạm Minh Đ và bà Nguyễn Thị Thu H1 là bạn bè với nhau, còn ông P là anh em họ hàng với ông. Khoảng giữa năm 2019, bị đơn có vay nguyên đơn số tiền 500.000.000 đồng, có ra công chứng ký hợp đồng vay tiền và thế chấp quyền sử dụng đất vào ngày 10/7/2019 tại Văn phòng công chứng Bình Tân. Buổi chiều, sau khi ký hợp đồng xong, vợ chồng ông Đ và bà H1 có đưa cho ông đủ số tiền 500.000.000 đồng. Ông liên hệ ngay với ông P, bà H2 để đưa số tiền trên nhưng ông P kêu ông đưa trực tiếp số tiền 500.000.000 đồng cho bà Hà Thị Mỹ L (em ruột ông P). Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền 500.000.000 đồng và lãi suất, ông có ý kiến như sau: Bị đơn có vay số tiền 500.000.000 đồng là sự thật và vay giùm cho bà Hà Thị Mỹ L nên bị đơn phải có trách nhiệm trả số tiền trên cho nguyên đơn. Ông xác định không có yêu cầu gì trong vụ án.
Bản án dân sự sơ thẩm số 146/2022/DS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Căn cứ Khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 92, Điều 94, Điều 96, khoản 2 Điều 200, Điều 227, Điều 228, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ Điều 463, Điều 465 Bộ luật dân sự 2015;
Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: về việc buộc bị đơn có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn số tiền gốc, lãi tính đến ngày 07/4/2022 như sau: số tiền nợ gốc 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng; lãi trong hạn 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng; lãi quá hạn tạm tính đến ngày 07/4/2022 là 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng. Tổng cộng là 860.000.000 (tám trăm sáu mươi triệu) đồng.
2. Buộc nguyên đơn trả lại Bản chính giấy chứng nhận CH09319 ngày 27/7/2018 do Ủy ban nhân dân quận Bình Tân cấp đứng tên bị đơn là ông Hà Kiến P và bà Lê Thị Thu H2. Trong trường hợp nguyên đơn không thực hiện nghĩa vụ trả giấy cho ông P, bà H2 sau khi ông P, bà H2 đã có đơn yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành việc trả giấy thì ông P, bà H2 được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để xin cấp lại Giấy chứng nhận CH09319 ngày 27/7/2018 do Ủy ban nhân dân quận Bình Tân cấp đứng tên bị đơn là ông Hà Kiến P và bà Lê Thị Thu H2 đối với nhà và đất số xxx Tỉnh lộ 10, khu phố 5, phường Tân Tạo, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: nguyên đơn phải nộp 37.800.000 (ba mươi bảy triệu tám trăm nghìn) đồng được cấn trừ vào biên lai số 0061063 ngày 25/5/2020, nguyên đơn còn phải nộp 24.809.660 (hai mươi bốn triệu tám trăm lẻ chín ngàn sáu trăm sáu mươi) đồng. Hoàn trả số tiền 300.000 đồng cho bị đơn theo biên lai thu tiền số 0061479 ngày 10/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bản án sơ thẩm còn tuyên về phần kháng cáo và thủ tục thi hành khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Ngày 21/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân có Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS với nội dung: Yêu cầu Tòa phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Bình Tân về phần án phí. Lý do: Tòa án nhân dân quận Bình Tân đã thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn theo “Thông báo về việc thụ lý vụ án (yêu cầu phản tố)” số 18/TB-TLVA ngày 10/7/2020 nhưng nhận định cho rằng đây là yêu cầu phản bác, không phải yêu cầu phản tố, là có mâu thuẫn. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hoàn trả số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí cho bị đơn mà không tuyên buộc nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm đối với phần phản tố của bị đơn được Tòa án chấp nhận, vi phạm quy định tại khoản 6 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đại diện Viện kiểm sát sau khi phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, phân tích nhận định về nội dung kháng nghị, đã nhận xét và đề nghị như sau:
- Về tố tụng: Giai đoạn phúc thẩm, Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự được đảm bảo để thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo qui định của pháp luật.
- Về nội dung: Sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn trong vụ án nhưng nhận định tại bản án là yêu cầu phản bác của bị đơn. Bản án quyết định buộc nguyên đơn phải thực hiện như yêu cầu phản tố của bị đơn nhưng lại không buộc nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm mức không có giá ngạch là không đúng quy định. Đề nghị phúc thẩm chấp nhận kháng nghị số 03/QĐ- VKS-DS ngày 21/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS ngày 21/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân đảm bảo đúng quy định về thời hạn và thủ tục. Thẩm quyền giải quyết vụ án sơ thẩm đã xác định đúng, đã đưa đủ người tham gia tố tụng, việc thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Theo đơn khởi kiện ngày 10/3/2020, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền vay nợ gốc 500.000.000 đồng; lãi trong hạn 60.000.000 đồng; lãi quá hạn (2,4%/tháng) tạm tính đến ngày 7/4/2022 là 300.000.000 đồng. Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về việc yêu cầu nguyên đơn trả lại giấy chứng nhận thì nguyên đơn chỉ đồng ý khi nào bị đơn trả hết toàn bộ số tiền trên.
[3] Tại đơn yêu cầu phản tố ngày 09/7/2020, bị đơn “yêu cầu Tòa án nhân dân quận Bình Tân tuyên hủy Hợp đồng vay tiền và thế chấp nhà ở và quyền sử dụng đất số công chứng 010885, Quyển số 7TP/CC-SCC/HĐGD ngày 10/7/2019 tại Văn phòng Công chứng Bình Tân. Lý do nguyên đơn vi phạm nghĩa vụ. Yêu cầu nguyên đơn trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất CL447835, số vào sổ cấp GCN: CH09319 do Ủy ban nhân dân quận Bình Tân cấp ngày 27/7/2018”. Nội dung các yêu cầu này của bị đơn đối với nguyên đơn phải được xác định là yêu cầu phản tố trong vụ án, theo quy định tại điểm b và c khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tòa án nhân dân quận Bình Tân thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn theo “Thông báo về việc thụ lý vụ án (yêu cầu phản tố)” số 18/TB-TLVA ngày 10/7/2020. Tuy nhiên, việc Tòa án nhân dân quận Bình Tân không thụ lý nội dung yêu cầu “hủy hợp đồng, lý do nguyên đơn vi phạm nghĩa vụ” là thiếu sót do không giải quyết hết yêu cầu của đương sự.
[4] Quá trình giải quyết, xét xử sơ thẩm tại bản án sơ thẩm có nhận định “yêu cầu trả lại giấy chứng nhận của bị đơn chỉ là yêu cầu phản bác không phải là yêu cầu phản tố theo quy định tại khoản 2 Điều 200 Bộ luật Tố tụng dân sự”, nhưng cũng tại phần nhận định của bản án lại nêu “Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn”, là có sự mâu thuẫn trong nhận định.
Phần quyết định bản án tuyên buộc nguyên đơn trả lại giấy chứng nhận cho bị đơn, là đã giải quyết chấp nhận yêu cầu phản tố này của bị đơn nhưng sơ thẩm không buộc nguyên đơn phải chịu án phí đối với nội dung yêu cầu này là không đúng, theo quy định tại khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Từ nhận định trên, xét kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS ngày 21/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa phúc thẩm là có căn cứ chấp nhận.
[5] Việc nhận định tại bản án sơ thẩm không có sự thống nhất và sơ thẩm chưa thụ lý giải quyết hết yêu cầu phản tố của bị đơn trong vụ án là đã có vi phạm về tố tụng. Tuy nhiên xét thấy các đương sự trong vụ án không kháng cáo, phần nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát được chấp nhận, quyền lợi của các đương sự liên quan đến hợp đồng vay vẫn không bị ảnh hưởng; Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện bị đơn cũng xác định không yêu cầu giải quyết đối với phần yêu cầu phản tố về việc huỷ hợp đồng nữa mà chỉ yêu cầu đòi nguyên đơn trả lại giấy chứng nhận. Việc nguyên đơn có giao tiền và ông Lê Thanh T2 thừa nhận có nhận số tiền của nguyên đơn thì có thể giải quyết bằng một vụ án khác khi có yêu cầu, nên phúc thẩm chấp nhận kháng nghị và chỉ sửa bản án sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 463, Điều 465 Bộ luật Dân sự 2015;
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận kháng nghị số 03/QĐ-VKS-DS ngày 21/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân; Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 146/2022/DS-ST ngày 07/4/2022 của Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: về việc buộc bị đơn ông Hà Kiến P và bà Lê Thị Thu H2 trả cho nguyên đơn ông Phạm Minh Đ và bà Nguyễn Thị Thu H1 số tiền gốc, lãi tính đến ngày 07/4/2022 như sau: số tiền nợ gốc 500.000.000 (năm trăm triệu) đồng; lãi trong hạn 60.000.000 (sáu mươi triệu) đồng; lãi quá hạn tạm tính đến ngày 07/4/2022 là 300.000.000 (ba trăm triệu) đồng. Tổng cộng là 860.000.000 (tám trăm sáu mươi triệu) đồng.
2. Buộc nguyên đơn Phạm Minh Đ và Nguyễn Thị Thu H1 trả lại bản chính Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, số vào sổ cấp GCN: CH09319 ngày 27/7/2018 do Ủy ban nhân dân quận Bình Tân cấp cho ông Hà Kiến P và bà Lê Thị Thu H2.
Trong trường hợp nguyên đơn không thực hiện nghĩa vụ trả giấy chứng nhận cho ông P, bà H2 sau khi ông P, bà H2 đã có đơn yêu cầu thi hành án thì ông P, bà H2 được quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để xin cấp lại Giấy chứng nhận CH09319 ngày 27/7/2018 do Ủy ban nhân dân quận Bình Tân cấp đứng tên bị đơn là ông Hà Kiến P và bà Lê Thị Thu H2 đối với nhà và đất số xxx Tỉnh lộ 10, khu phố x, phường Tân Tạo, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyên đơn Phạm Minh Đ và Nguyễn Thị Thu H1 phải nộp 37.800.000 (ba mươi bảy triệu tám trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng theo biên lai số AA/2019/0061063 ngày 25/5/2020, nguyên đơn còn phải nộp 24.809.660 (hai mươi bốn triệu tám trăm lẻ chín ngàn sáu trăm sáu mươi) đồng.
- Nguyên đơn Phạm Minh Đ và Nguyễn Thị Thu H1 phải chịu 300.000 đồng án phí không giá ngạch đối với yêu cầu phản tố của bị đơn.
- Hoàn trả số tiền 300.000 đồng cho bị đơn ông Hà Kiến P và bà Lê Thị Thu H2 theo biên lai thu tiền số AA/2019/0061479 ngày 10/7/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 402/2022/DS-PT
Số hiệu: | 402/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 21/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về