Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 32/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 32/2022/DS-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang. Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 39/2022/TLST-DS ngày 03 tháng 3 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐST - DS ngày 20 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Lê Văn L (có mặt) Trú tại: ấp T, xã Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang

- Bị đơn:

1/ Bà Phạm Thị A (có mặt)  

2/ Bà Dương Thị D (có mặt)

3/ Bà Nguyễn Thị Th (có mặt) Cùng trú tại: ấp T, xã Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hội L xã Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang Trú tại: ấp P, xã Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang Người đại diện theo pháp luật của Hội L xã Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang: Bà Phạm Thị Út B - Chủ tịch hội (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai của nguyên đơn ông Lê Văn L trình bày: Nguyên đơn có gởi tiền cho nhóm phụ nữ địa phương gồm bà Phạm Thị A, Dương Thị D, Nguyễn Thị Th cụ thể như sau: Ngày 31/12/2019 gởi 120.000.000 đồng (lãi suất 2,5%/tháng). Từ khi gởi tiền đến nay nguyên đơn có nhận 5.000.000 đồng thì không nhận lãi nữa. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả 120.000.000 đồng triền gốc và lãi suất là 72.000.000 đồng – 5.000.000 đồng = 67.000.000 đồng. Tổng tiền là 187.000.000 đồng. Tại phiên tòa ông L yêu cầu tính lãi suất theo quy định pháp luật từ ngày vi phạm đến khi xét xử.

Tại các lời khai của bị đơn bà Phạm Thị A trình bày: Nhóm phụ nữ tiết kiệm ấp T, xã Đ do bà A làm trưởng nhóm, bà Dương Thị D làm nhóm phó, bà Nguyễn Thị Th làm thư ký. Nhóm có nhận số tiền gốc và thỏa thuận lãi suất như nguyên đơn trình bày. Bà D, bà Th và bà có trách nhiệm trả cho nguyên đơn 120.000.000 đồng tiền gốc, tiền lãi bà xin không trả. Tại phiên tòa bà A xin giảm lãi suất tính cho bà 0,1%/tháng.

Tại các lời khai của bị đơn bà Dương Thị D trình bày: Nhóm phụ nữ tiết kiệm ấp T, xã Đ do bà D làm phó nhóm, bà Phạm Thị A làm trưởng nhóm, bà Nguyễn Thị Th làm thư ký. Nhóm có nhận số tiền gốc và thỏa thuận lãi suất như nguyên đơn trình bày. Bà A, bà Th và bà có trách nhiệm trả cho nguyên đơn 120.000.000 đồng tiền gốc, tiền lãi bà xin không trả. Tại phiên tòa bà D xin giảm lãi suất tính cho bà 0,1%/tháng.

Tại các lời khai của bị đơn bà Nguyễn Thị Th trình bày: Nhóm phụ nữ tiết kiệm ấp T, xã Đ do bà A làm trưởng nhóm, bà D làm nhóm phó, bà Th làm thư ký. Nhóm có nhận số tiền gốc và thỏa thuận lãi suất như nguyên đơn trình bày. Bà A, bà D và bà có trách nhiệm trả cho nguyên đơn 120.000.000 đồng tiền gốc, tiền lãi bà xin không trả. Tại phiên tòa bà Th xin giảm lãi suất tính cho bà 0,1%/tháng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:

Tại văn bản số 03/CV-HPN ngày 20/4/2022 của Hội L xã Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang trình bày: Việc thành lập Ban quản lý nhóm phụ nữ tiết kiệm (nhóm 1) ấp T, xã Đ trên cơ sơ biểu quyết của tất cả hội viên tham gia nhóm. Việc Ban quản lý nhóm phụ nữ tiết kiệm (nhóm 1) ấp T vay và nhận tiền của những người gởi vào Ban quản lý (theo hình thức gởi ngoài sổ tiết kiệm hàng tuần) là không đúng theo hướng dẫn của Hội L và mục đích khi thành lập nhóm. Dẫn đến đã nợ các hộ dân với lãi suất cao hơn lãi suất gởi vào nhóm và quy định của nhà nước. Đề nghị Tòa án huyện Châu Thành giải quyết theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm: Về phần thủ tục từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử thực hiện đúng theo trình tự tố tụng. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền vay và lãi suất, nên xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Nguyên đơn khởi kiện đã chứng minh được yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ và hợp pháp. Bị đơn thừa nhận có nhận số tiền của ông L 120.000.000 đồng vào ngày 31/12/2019, thỏa thuận lãi suất 2,5%/tháng. Bị đơn đồng ý trả số nợ gốc nhưng xin trả lãi 0,1/tháng. Ông L không đồng ý yêu cầu giảm lãi của bị đơn, đề nghị tính lãi suất theo quy định. Hội đồng xét xử thấy rằng bị đơn thừa nhận có thỏa thuận vay tiền và thỏa thuận trả lãi suất. Nay bị đơn yêu cầu tính lãi 0,1/tháng là không có căn cứ. Có vay thì phải có trả, trả đúng và trả đủ mới phù hợp quy định của pháp luật lẫn đạo lý. Nên yêu cầu được trả lãi 0,1%/tháng của bị đơn không được chấp nhận.

[3] Tuy nhiên, thỏa thuận lãi suất 2,5%/tháng của các bên là cao so với quy định, nên Hội đồng xét xử điều chỉnh lại cho phù hợp. Căn cứ khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự quy định “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay…””. Từ ngày vi phạm nghĩa vụ trả nợ 01/01/2020 đến ngày 10/6/2022 (ngày xét xử sơ thẩm) là 02 năm 05 tháng 09 ngày. Tiền lãi bị đơn phải trả là 120.000.000 đồng x 20%/năm x 02 năm 05 tháng 09 ngày = 58.600.000 đồng – 5.000.000 (tiền lãi đã trả) = 53.600.000 đồng. Tiền gốc và tiền lãi bị đơn phải trả cho nguyên đơn là 173.600.000 đồng.

[4] Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn phải chịu phần án phí có giá ngạch là 173.600.000 đồng x 5% = 8.680.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng: Điều 463, Điều 466 và Điều 468 của Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn L.

Buộc bà Phạm Thị A, bà Dương Thị D, bà Nguyễn Thị Th phải trả cho ông Lê Văn L 173.600.000 đồng (nợ gốc 120.000.000 đồng, nợ lãi 53.600.000 đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Phạm Thị A, bà Dương Thị D, bà Nguyễn Thị Th phải chịu 8.680.000 đồng. Hoàn trả lại cho ông Lê Văn L 4.675.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã đóng theo biên lai số 0010257 ngày 03/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng, thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 32/2022/DS-ST

Số hiệu:32/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 10/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về