TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 27/2023/DS-ST NGÀY 16/08/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Trong ngày 16 tháng 8 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 18/2023/TLST-DS ngày 30/3/2023 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2023/QĐXXST-DS, ngày 05/7/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Trọng L; địa chỉ: Số nhà H, tổ C phường B, thành phố P, tỉnh Gia Lai.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H; địa chỉ: Thôn L, xã K, huyện D, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Đặng Thị H; địa chỉ: Làng D, xã B, huyện G, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Nguyên đơn Lê Trọng L và người đại diện theo ủy quyền trình bày: Ngày 15/11/2018, ông Lê Trọng L có cho bà Đặng Thị H vay tiền theo “Hợp đồng mượn tiền”, số tiền vay là 20.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, thời hạn vay đến ngày 15/11/2019. Hai bên thỏa thuận bà H trả góp hàng tháng là 2.380.000 đồng trong 12 tháng bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà H đã thanh toán được 06 kỳ đầu tiên gồm tiền gốc và tiền lãi tính đến ngày 15/5/2019, còn nợ lại số tiền nợ gốc là 12.371.000 đồng và tiền lãi từ ngày 16/5/2019 đến nay nhưng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Do vậy, ông L khởi kiện yêu cầu bà H phải có nghĩa vụ trả nợ cho ông L gồm tiền nợ gốc là 12.371.000 đồng và tiền lãi từ ngày 16/5/2019 đến nay với lãi suất 1,66%/tháng.
2. Tòa án đã thực hiện tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng để triệu tập bị đơn Đặng Thị H đến làm việc liên quan đến vụ án và cung cấp chứng cứ để chứng minh nhưng bà H cố tình trốn tránh, không có mặt theo Giấy triệu tập và không cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Do vậy, hồ sơ không có lời khai của bà H.
3. Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã giao nộp các tài liệu, chứng cứ: 01 Hợp đồng mượn tiền ghi ngày 15/11/2018; Tòa án không thu thập và bị đơn không giao nộp tài liệu, chứng cứ.
4. Phát biểu ý kiến tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát khẳng định trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Tại phiên tòa Hội đồng xét xử cũng đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng kể từ khi bắt đầu phiên tòa cho đến trước khi nghị án; Đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt. Về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tính lại lãi suất theo quy định của pháp luật và buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 16/8/2023 là 17.633.724 đồng; Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả số tiền nợ gốc và nợ lãi với số tiền là 5.415.923 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Xét nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn phù hợp với quy định của pháp luật, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại các Điều 26, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật; Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình trốn tránh, không có mặt theo giấy triệu tập, không cung cấp chứng cứ nên phải chịu trách nhiệm về việc không chứng minh được và Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt.
[2] Về hợp đồng vay tiền: Chứng cứ ông Lê Trọng L cung cấp là “Hợp đồng mượn tiền” đã thể hiện rõ ngày 15/11/2018, ông L có cho bà H vay số tiền là 20.000.000 đồng, lãi suất 5%/tháng, thời hạn vay đến ngày 15/11/2019, bà H trả góp hàng tháng là 2.380.000 đồng trong 12 tháng bao gồm cả tiền gốc và tiền lãi. Quá trình thực hiện hợp đồng, bà H đã thanh toán được 06 kỳ đầu tiên gồm tiền gốc và tiền lãi tính đến ngày 15/5/2019, sau đó không tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Bà H không có ý kiến gì phản đối các chứng cứ mà ông L đã cung cấp nên đây là vấn đề không phải chứng minh.
[3] Về nghĩa vụ trả nợ: Tại “Hợp đồng mượn tiền” là hợp đồng dân sự, không phải là hợp đồng tín dụng, hai bên thỏa thuận lãi suất 5%/tháng nên đây là hợp đồng vay có lãi, mức lãi suất hai bên thỏa thuận là 5%/tháng tương đương 60%/năm, vượt quá lãi suất giới hạn là 20%/năm theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự nên mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực. Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định tại Điều 5 và Điều 9 Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn về áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm” để tính lại lãi suất và các khoản tiền mà bà H phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông L như sau: Lời khai của ông L khẳng định bà H đã thanh toán 06 kỳ theo hợp đồng đến hết ngày 15/5/2019 (Bút lục số 26) với tổng số tiền nợ gốc được tính là 9.390.831 đồng, tiền lãi được tính là 4.892.866 đồng. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì số tiền lãi bà H phải trả là 20.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 06 tháng = 1.992.000 đồng. Như vậy số tiền lãi bà H đã trả vượt quá tiền lãi theo quy định được trừ vào số tiền nợ gốc là 4.892.866 đồng - 1.992.000 đồng = 2.900.866 đồng. Tiền gốc bà H còn nợ ông L đến hết ngày 15/5/2019 là 20.000.000 đồng – 9.390.831 đồng – 2.900.866 đồng = 7.708.303 đồng.
Các khoản tiền mà bà H phải trả cho ông L gồm: Tiền nợ gốc là 7.708.303 đồng; tiền lãi trên nợ gốc trong hạn là 7.708.303 đồng x 1,66%/tháng x 06 tháng = 767.747 đồng; lãi trên nợ gốc quá hạn là 7.708.303 đồng x 2,5%/tháng x 46 tháng = 8.864.548 đồng; lãi trên nợ lãi chưa trả 767.747 đồng x 0,83%/tháng x 46 tháng = 293.126 đồng; Tổng cộng là 17.633.724 đồng.
Ông L yêu cầu bà H phải trả số tiền nợ gồm nợ gốc là 12.371.000 đồng và tiền lãi từ ngày 16/5/2019 đến nay là 12.371.000 đồng x 1,66%/tháng x 52 tháng = 10.678.647 đồng. Tổng cộng là 23.049.674 đồng.
Như vậy phần yêu cầu khởi kiện của ông L không được chấp nhận là 23.049.674 đồng - 17.633.724 đồng = 5.415.923 đồng.
[4] Về án phí: Bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận; Bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch đối với phần yêu cầu khởi kiện không được chấp nhận. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng Điều 144, Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Áp dụng Điều 466, Điều 468, Điều 470 của Bộ luật Dân sự;
- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Trọng L.
Buộc bà Đặng Thị H phải trả cho ông Lê Trọng L toàn bộ số tiền nợ tính đến ngày 16/8/2023 là 17.633.724 đồng (mười bảy triệu sấu trăm ba mươi ba nghìn bảy trăm hai mươi bốn đồng). Trong đó nợ gốc là 7.708.303 đồng (bảy triệu bảy trăm không tám nghìn ba trăm không ba đồng), lãi trên nợ gốc trong hạn là 767.747 đồng (bảy trăm sáu mươi bảy nghìn bảy trăm bốn mươi bảy đồng), lãi trên nợ gốc quá hạn là 8.864.548 đồng (tám triệu tám trăm sáu mươi bốn nghìn năm trăm bốn mươi tám đồng), lãi trên nợ lãi chưa trả là 293.126 đồng (hai trăm chín mươi ba nghìn một trăm hai mươi sáu đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Trọng L về việc buộc bà Đặng Thị H phải trả số tiền nợ gốc và nợ lãi với số tiền là 5.415.923 đồng (năm triệu bốn trăm mười lăm nghìn chín trăm hai mươi ba đồng).
Buộc bà Đặng Thị H phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 881.686 đồng (tám trăm tám mươi mốt nghìn sáu trăm tám mươi sáu đồng); Buộc ông Lê Trọng L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 270.796 đồng (hai trăm bảy mươi nghìn bảy trăm chín mươi sáu đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp, hoàn trả lại cho ông Lê Trọng L số tiền 284.909 đồng (hai trăm tám mươi bốn nghìn chín trăm không chín đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008873 ngày 27/3/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Gia Lai.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo Bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 27/2023/DS-ST
Số hiệu: | 27/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ia Grai - Gia Lai |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về