Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 261/2022/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 261/2022/DS-PT NGÀY 24/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 24/5/2022, tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 114/2022/TLPT-DS ngày 15/4/2022, về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 58/2022/DS-ST ngày 28/02/2022 của Toà án nhân dân huyện CC bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1749/2022/QĐ-PT ngày 04/5/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị L, sinh năm 1956 (có mặt) Địa chỉ: 8A-808 NVC, tổ B, ấp PT, xã AP, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng S , sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: 531 CG, tổ B, ấp PT, xã AP, huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người kháng cáo: Ông Nguyễn Hoàng S.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 04/01/2022, bản tự khai, biên bản hòa giải ngày 17/02/2022, nguyên đơn bà Trần Thị L trình bày:

Ngày 20/6/2020, bà có cho ông Nguyễn Hoàng S mượn số tiền 141.000.000 đồng theo giấy mượn tiền ngày 20/6/2020, ông S hứa trả trong vòng 06 tháng, với lãi suất 3%. Đến nay đã quá hạn nhưng ông S vẫn không hoàn trả tiền gốc và lãi. Do đó, bà yêu cầu ông Nguyễn Hoàng S trả lại số tiền 141.000.000 đồng, trả làm một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Tại bản tự khai ngày 17/02/2022, bị đơn ông Nguyễn Hoàng S trình bày: Ông đồng ý trả cho bà L số tiền 141.000.000 đồng nhưng do hoàn cảnh gia đ nh khó khăn nên xin trả dần số tiền 141.000.000 đồng bằng cách mỗi tháng trả 3.000.000 đồng cho đến khi hết số nợ trên.

Tại bản án sơ thẩm số 58/2022/DS-ST ngày 28/02/2022, Toà án nhân dân huyện CC đã tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị L.

Buộc ông Nguyễn Hoàng S có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị L số tiền 141.000.000đ (một trăm bốn mươi mốt triệu đồng).

Thi hành một lần ngay sau khi bản án phát sinh hiệu lực pháp luật Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, đồng thời có đơn yêu cầu thi hành án của bà Trần Thị L nếu ông Nguyễn Hoàng S chưa trả số tiền nêu trên th hàng tháng phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất chậm thanh toán theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015, cho đến khi trả xong nợ.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Hoàng S phải chịu là 7.050.000đ (bảy triệu không trăm năm mươi ngàn đồng).

Thi hành tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 09/3/2022, ông Nguyễn Hoàng S là bị đơn kháng cáo, xin trả dần số tiền 141.000.000 đồng, bằng cách trả mỗi tháng là 4.000.000 đồng cho đến khi hết số nợ trên.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

+ Bà Trần Thị L không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng S xin trả dần số tiền 141.000.000 đồng, bằng cách trả mỗi tháng là 4.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà L cho ông S trả số nợ 141.000.000 đồng làm ba đợt như sau: Đợt 1, từ ngày 24/5/2022 đến ngày 24/6/2022 ông S trả 50.000.000 đồng; đợt 2, từ ngày 25/6/2022 đến ngày 25/7/2022 trả 50.000.000 đồng và đợt 3 từ ngày 26/7/2022 đến ngày 26/8/2022, ông S trả số tiền còn lại là 41.000.000 đồng.

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu: Từ khi thụ lý giải quyết vụ án phúc thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tiến hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong việc giải quyết vụ án. Đồng thời, các đương sự trong vụ án thực hiện các quyền và chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng.

Bị đơn ông S là người kháng cáo có đơn xin xét xử vắng mặt, nên đề nghị Hội đồng xét xử vắng mặt ông S theo quy định của pháp luật.

Căn cứ Giấy mượn tiền ngày 20/6/2020, giữa bà Trần Thị L và ông Nguyễn Hoàng S có cơ sở xác định ông S có mượn của bà L số tiền 141.000.000 đồng.

Ông S kháng cáo yêu cầu xin trả dần số tiền 141.000.000 đồng bằng cách trả mỗi tháng 4.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà L không đồng ý cho ông S trả dần số tiền 141.000.000 đồng, bằng cách mỗi tháng trả 4.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bà L cho ông S trả số tiền 141.000.000 đồng, làm ba đợt cụ thể: Đợt 1, từ ngày 24/5/2022 đến ngày 24/6/2022 ông S trả 50.000.000 đồng; đợt 2, từ ngày 25/6/2022 đến 25/7/2022 trả 50.000.000 đồng và đợt 3, từ ngày 26/7/2022 đến ngày 26/8/2022, ông S trả số tiền còn lại là 41.000.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử, ghi nhận sự tự nguyện của bà L cho ông S trả số tiền 141.000.000 đồng làm 03 đợt nêu trên.

Từ phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông S và sửa một phần bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Ngày 23/5/2022, bị đơn ông Nguyễn Hoàng S có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, với yêu cầu xin được xin được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông S theo quy định tại khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Theo Giấy mượn tiền ngày 20/6/2020, giữa bà Trần Thị L và ông Nguyễn Hoàng S có nội dung: Ông Nguyễn Hoàng S có mượn của bà Trần Thị L số tiền 141.000.000 đồng, lãi suất 3%, thời hạn vay là 06 tháng (bút lục số 36).

[3] Xét đơn kháng cáo ngày 09/3/2020, ông Nguyễn Hoàng S kháng cáo xin trả dần số tiền 141.000.000 đồng, bằng cách trả hàng tháng 4.000.000 đồng cho đến khi hết số nợ trên, do hoàn cảnh hiện nay khó khăn, không có việc làm ổn định, thu nhập cũng không ổn định. Bà Trần Thị L không đồng ý với yêu cầu kháng cáo của ông S xin trả dần số tiền 141.000.000 đồng, bằng cách mỗi tháng trả 4.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bà Trần Thị L cho ông Nguyễn Hoàng S trả dần số tiền 141.000.000 đồng, bằng cách trả làm ba đợt cụ thể: Đợt 1, từ ngày 24/5/2022 đến ngày 24/6/2022, ông S trả 50.000.000 đồng;

đợt 2, từ ngày 25/6/2022 đến ngày 25/7/2022, ông S trả 50.000.000 đồng và đợt 3, từ ngày 26/7/2022 đến ngày 26/8/2022, ông S trả số tiền còn lại là 41.000.000 đồng.

Xét, bà L tự nguyện cho ông S trả số tiền 141.000.000 đồng, bằng cách trả làm 03 đợt nêu trên là hoàn toàn tự nguyện, không trái quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận sự tự nguyện của bà L.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng S và sửa một phần bản án sơ thẩm, ghi nhận sự tự nguyện của bà L cho ông S trả số nợ 141.000.000 đồng làm 03 đợt như sau: Đợt 1, từ ngày 24/5/2022 đến ngày 24/6/2022 ông S trả 50.000.000 đồng; đợt 2 từ ngày 25/6/2022 đến ngày 25/7/2022 ông S trả 50.000.000 đồng và đợt 3 từ ngày 26/7/2022 đến ngày 26/8/2022, ông S trả số tiền còn lại là 41.000.000 đồng, là có căn cứ nên chấp nhận.

[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa bản án sơ thẩm nên ông S không phải chịu.

V các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308 và khoản 2 Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ 463; Điều 466; Điều 470 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 29 Chương III Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Hoàng S ơn.

2. Sửa một phần bản án số 58/2022/DS-ST ngày 28/02/2022 của Tòa án nhân dân huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh.

2.1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị L.

Buộc ông Nguyễn Hoàng S có trách nhiệm trả cho bà Trần Thị L số tiền 141.000.000đ (một trăm bốn mươi mốt triệu đồng).

Ghi nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị L cho ông Nguyễn Hoàng S trả số tiền 141.000.000đ (một trăm bốn mươi mốt triệu đồng) nêu trên, làm 03 đợt như sau:

Đợt 1: từ ngày 24/5/2022 đến ngày 24/6/2022, ông S trả cho bà L số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng);

Đợt 2: từ ngày 25/6/2022 đến ngày 25/7/2022, ông S trả cho bà L số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng);

Đợt 3: từ ngày 26/7/2022 đến ngày 26/8/2022, ông S trả số tiền còn lại cho bà L là 41.000.000đ (bốn mươi mốt triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của bà Trần Thị L nếu ông Nguyễn Hoàng S chưa trả số tiền nêu trên th hàng tháng ông S phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất chậm thanh toán theo quy định tại Điều 357 và 468 của Bộ luật dân sự 2015, tương ứng với thời gian và khoản tiền chưa thi hành án.

2.2. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Hoàng S phải chịu là 7.050.000đ (bảy triệu không trăm năm mươi ngàn đồng).

3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Hoàng S không phải chịu. Hoàn lại cho ông Nguyễn Hoàng S số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) do ông Nguyễn Hoàng S nộp theo biên lai thu số 0044072 ngày 10/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện CC, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

222
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 261/2022/DS-PT

Số hiệu:261/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về