Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 13/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG THÍT, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 13/2023/DS-ST NGÀY 22/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mang Thít xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án dân sự thụ lý số: 132/ 2022/TLST-DS ngày 05 tháng 10 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXXST-DS ngày 06 tháng 02 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1971 (Có mặt).

Địa chỉ: ấp T, xã A, huyện M, tỉnh Vĩnh Long.

2. Bị đơn: Ông Phùng Văn P, sinh năm 1966 (vắng mặt) Anh Phùng Ngọc Đ, sinh năm 1985 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp P, xã B, huyện M, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án đại diện nguyên đơn ông Nguyễn Nguyễn Văn C trình bày:

Nguyên vào ngày 25/02/2022 thông qua chị ruột là bà Nguyễn Thị Bé S giới thiệu nên ông C có cho ông Phùng Văn P vay tiền nhiều lần, để trị bệnh cho con là Phùng Ngọc Đ và cho anh Đ để mua bán trái cây, từ ngày 25/02/2022 đến ngày 29/7/2022 thì ông Phùng Văn P đã vay tổng cộng số tiền cụ thể như sau:

+ Ngày 25/02/2022 ông P vay 550.000.000đ + Ngày 24/02/2022 ông P vay 150.000.000đ + Ngày 01/3/2022 ông P vay 100.000.000đ + Ngày 02/3/2022 ông P vay 80.000.000đ + Ngày 20/6/2022 ông P vay 200.000.000đ + Ngày 30/7/2022 ông P tiếp tục vay số tiền 192.000.000đ và 02 chỉ vàng 24kara.

+ Ngày 29/7/2022 ông P vay tiếp 100.000.000đ Như vậy tổng cộng ông Phùng Văn P, anh Phùng Ngọc Đ vay 1.372.000.000đ (Một tỷ ba trăm bảy mươi hai triệu đồng) và 02 chỉ vàng 24kara, giá vàng 5.210.000đ/ 01 chỉ vàng 24kara.

Ông C đòi nhiều lần nhưng ông Phùng Văn Phòng cùng con là ông Phùng Ngọc Đ cứ hẹn nhiều lần nhưng không trả.

Nay ông Nguyễn Văn C yêu cầu ông Phùng Văn P và anh Phùng Ngọc Đ trả lại số tiền đã vay 1.372.000.000đ (Một tỷ ba trăm bảy mươi hai triệu đồng) và 02 chỉ vàng 24kara và tính lãi với lãi suất 10%/ năm đối với số tiền gốc 1.372.000.000đ từ ngày 01/8/2022 đến khi trả xong số tiền gốc.

Tại phiên tòa hôm nay ông C chỉ yêu cầu tính lãi từ ngày nộp đơn khởi kiện 05/10/2022 đến ngày ông Phùng Văn P, anh Phùng Ngọc Đ trả xong số tiền vay gốc, tại phiên tòa tiền lãi tính như sau: từ ngày 05/10/2022 đến ngày 22/3/2023 làm tròn 05 tháng x 10%/ năm x 1.372.000.000đ = 57.166.000đ và yêu cầu tiếp tục tính lãi chậm trả trong giai đoạn thi hành án.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông Phùng Văn P trình bày: Thừa nhận vào ngày 25/02/2022 thông qua bà Nguyễn Thị Bé S giới thiệu nên ông C có cho ông Phùng Văn P vay tiền nhiều lần, lý do trị bệnh cho con là Phùng Ngọc Đ và để cho anh Đ làm ăn, từ ngày 25/02/2022 đến ngày 29/7/2022 thì ông Phùng Văn P đã vay các khoản tiền cụ thể như sau:

+ Ngày 25/02/2022 ông P vay 550.000.000đ + Ngày 24/02/2022 ông P vay 150.000.000đ + Ngày 01/3/2022 ông P vay 100.000.000đ + Ngày 02/3/2022 ông P vay 80.000.000đ + Ngày 20/6/2022 ông P vay 200.000.000đ + Ngày 30/7/2022 ông P tiếp tục vay số tiền 192.000.000đ và 02 chỉ vàng 24kara.

+ Ngày 29/7/2022 ông P vay tiếp 100.000.000đ Như vậy tổng cộng ông Phùng Văn P vay ông C là 1.372.000.000đ (Một tỷ ba trăm bảy mươi hai triệu đồng) và 02 chỉ vàng 24kara.

Mục đích ông P vay tiền để trị bệnh cho con ruột là anh Phùng Ngọc Đ và đưa tiền cho anh Đ trang trải, làm ăn vì dịch bệnh Covid-19 nên gặp khó khăn.

Nay ông Nguyễn Văn C yêu cầu ông Phùng Văn P, anh Phùng Ngọc Đ trả lại số tiền đã vay 1.372.000.000đ (Một tỷ ba trăm bảy mươi hai triệu đồng) và 02 chỉ vàng 24kara và tính lãi với lãi suất 10%/năm từ ngày 01/8/2022 đến ngày xét xử xử xong đối với số tiền gốc 1.372.000.000đ phía ông Phùng Văn P thừa nhận và đồng ý trả cho ông Nguyễn Văn C nhưng xin trả dần.

Trong quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Phùng Ngọc Đ biết về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nêu trong đơn khởi kiện, kèm theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhưng anh Đ vắng mặt không lý do, tại phiên tòa hôm nay dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng ông P, anh Đ vắng mặt không lý do, không nộp cho Tòa án ý kiến phản bác, tài liệu chứng cứ có liên quan đến vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tiền vay theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn có nơi cư trú tại huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long nên căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Mang Thít thụ lý giải quyết theo thẩm quyền, bị đơn ông Phùng Văn P, anh Phùng Ngọc Đ được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật TTDS xử vắng mặt.

[2] Về nội dung: Xét, hợp đồng vay giữa ông Nguyễn Văn C với ông Phùng Văn P là có thật vì ông C có cung cấp cho Tòa án văn bản là biên nhận mượn tiền trong đó có thể hiện nội dung ông P vay tiền ông C số tiền 1.372.000.000đ (Một tỷ ba trăm bảy mươi hai triệu đồng) và 02 chỉ vàng 24kara, mục đích vay tiền để trị bệnh cho con anh Phùng Ngọc Đ và đưa tiền cho anh Đ mua bán, trang trải trong mùa dịch bệnh Covid-19, thực hiện hợp đồng vay ông P, anh Đ không trả tiền lãi, tiền gốc nên đã vi phạm nghiêm trọng thỏa thuận trong hợp đồng vay giữa ông C, ông P, anh Đ việc này ông P thừa nhận nên đây là tình tiết không cần phải chứng minh theo quy định của BLTTDS. Tòa án có tống đạt hợp lệ bản sao đơn khởi kiện kèm theo bản sao toàn bộ tài liệu, chứng cứ cho anh Phùng Ngọc Đ nhưng anh Đ không có ý kiến phản bác, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh đối với yêu cầu khởi kiện của ông C nên anh Đ phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định của Bộ luật TTDS do đó việc ông C khởi kiện yêu cầu ông P, anh Đ trả số tiền vay là 1.382.000.000đ, 02 chỉ vàng 24kara và tiền lãi 57.166.000đ là có căn cứ để HĐXX chấp nhận, do ông C, anh Đ vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên phải trả lãi xuất là phù hợp các Điều 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, giá vàng là 5.210.000đ làm căn cứ xét xử.

[ 3 ] Án phí dân sự sơ thẩm buộc bị đơn ông Phùng Văn P và anh Phùng Ngọc Đ liên đới nộp theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 463, 466, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a Khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Điều 147, Điều 227, 228 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 4 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn C.

Buộc ông Phùng Văn P, anh Phùng Ngọc Đ liên đới trả ông Nguyễn Văn C số tiền vay gốc 1.372.000.000đ (Một tỷ ba trăm bảy mươi hai triệu đồng), tiền lãi của số tiền gốc 57.166.000đ (năm mươi bảy triệu một trăm sáu mươi sáu ngàn đồng) và 02 chỉ vàng 24kara.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí: Buộc ông Phùng Văn P và anh Phùng Ngọc Đ nộp 55.187.500 (năm mươi lăm triệu một trăm tám mươi bảy ngàn năm trăm đồng).

Trả ông Nguyễn Văn C 26.736.000đ (Hai mươi sáu triệu bảy trăm ba mươi sáu ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí theo lai thu số 0007348, ngày 05/10/2022 mà ông Nguyễn Văn C đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mang Thít.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai báo đương sự có mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 13/2023/DS-ST

Số hiệu:13/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Thít - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về