Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 04/2023/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 04/2023/DS-ST NGÀY 16/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 16/3/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản đã thụ lý số: 55/2022/TLST-DS, ngày 01/11/2022, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2023/QĐXXST-DS, ngày 27 tháng 02 năm 2023 giữa:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị L, sinh năm 1984 (có mặt).

Trú tại: Thôn Cổ Giang, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội.

Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân T, sinh năm 1981 (có mặt).

Trú tại: Thôn Tư Thế, xã Trí Quả, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 20/10/2022 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn là chị Dương Thị L trình bày: Chị với anh Trường là quan hệ bạn bè lâu năm.

Năm 2021 anh Trường làm nhà, do dịch bệnh Covid-19, cuộc sống khó khăn, anh Trường có hỏi vay tiền chị. Chị đã cho anh Trường vay số tiền 9.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản, cụ thể:

Ngày 13/4/2021 chị cho anh Trường vay 5.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản từ số tài khoản của chị là 1903.659.7733.017 của Ngân hàng TMCP Kỹ thương (TECHCOMBANK) đến số tài khoản 9704.2292.9210. XXXX của anh Trường là Ngân hàng TMCP Quân đội (gọi tắt là MBBANK).

Ngày 28/8/2021 chị cho anh Trường vay 3.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản như trên.

Ngày 09/10/2021 chị cho anh Trường vay 1.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản như trên.

Tháng 17/7/2021 chị cho anh Trường vay số tiền 10.000.000đ để anh Trường trả tiền cửa làm nhà. Khi cho vay hai bên chỉ đưa tay, không viết giấy tờ gì.

Tổng cộng chị cho anh Trường vay 19.000.000đ, vay không có lãi, thời hạn vay hai bên thỏa thuận miệng là 6 tháng.

Tháng 3/2022 chị nhắc thì anh Trường khất. Tháng 5/2022 chị đòi thì anh Trường khất đến tháng 7 và tháng 8/2022 và khất đến cuối năm 2022 sẽ trả. Đến nay anh Trường chưa trả cho chị được đồng nào.

Nay chị yêu cầu anh Trường phải có nghĩa vụ trả cho chị số tiền 19.000.000đ.

Chị không yêu cầu phải trả lãi.

Phía bị đơn là anh Nguyễn Xuân T trình bày:

Anh thừa nhận có vay chị Lan số tiền 9.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản, sau đó anh đã trả hết cho chị Lan số tiền 9.000.000đ rồi, anh trả làm nhiều lần, mỗi lẫn trả chỉ đưa tay, không viết giấy tờ gì, anh không nhớ thời gian trả. Anh không vay chị Lan số tiền 10.000.000đ như chị Lan trình bày.

Nay chị Lan yêu cầu anh phải trả số tiền 19.000.000đ thì anh không đồng ý, vì anh không còn nợ chị Lan.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa là đúng pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của các đương sự cơ bản là đúng pháp luật.

Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 3, điều 26, điều 35, điều 144, 147, 235, 264 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng điều 117, 466, 470 Bộ luật dân sự năm 2015.

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

1. Chấp nhận đơn một phần yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị L.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lan về việc buộc anh Trường phải trả số tiền 10.000.000đ.

2. Buộc anh Nguyễn Xuân T phải trả cho chị Dương Thị L 9.000.000đ. Anh Trường phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Chị Lan phải chịu án phí đối với yêu cầu không được chấp nhận.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại đơn khởi kiện chị Dương Thị L yêu cầu anh Nguyễn Xuân T phải trả số tiền 19.000.000đ. Đây là vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản và Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành đã thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 3, điều 26; điều 35; điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Xét thấy, tại “Sổ phụ kiêm phiếu báo nợ” do Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam cung cấp đã thể hiện chị Lan chuyển khoản cho anh Nguyễn Xuân T tổng số tiền là 9.000.000đ, cụ thể:

Ngày 13/4/2021 chị Lan chuyển khoản cho anh Trường số tiền 5.000.000đ. Ngày 28/8/2021 chị Lan chuyển khoản cho anh Trường số tiền 3.000.000đ. Ngày 09/10/2021 chị Lan chuyển khoản cho anh Trường số tiền 1.000.000đ.

Chị Lan còn trình bày ngày 17/7/2021 chị cho anh Trường vay số tiền 10.000.000đ để anh Trường trả tiền cửa làm nhà. Khi cho vay hai bên chỉ đưa tay, không viết giấy tờ gì. Tổng cộng chị cho anh Trường vay 19.000.000đ. Hai bên trình bày vay không lãi suất, do vậy cần xác định đây là hợp đồng vay không lãi. Do anh Trường không thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên chị Lan làm đơn khởi kiện yêu cầu anh Trường phải trả số tiền 19.000.000đ.

Phía anh Trường chỉ thừa nhận có vay chị Lan số tiền 9.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản, anh vay để chi tiêu cá nhân chứ không phải vay trả tiền cửa làm nhà, anh đã trả hết cho chị Lan rồi, anh trả làm nhiều lần, mỗi lẫn trả chỉ đưa tay, không viết giấy tờ gì, anh không nhớ thời gian trả, tuy nhiên anh Trường không đưa ra được căn cứ để chứng minh. Nay chị Lan yêu cầu anh Trường phải có nghĩa vụ trả số tiền 9.000.000đ là có căn cứ chấp nhận. Chị Lan không yêu cầu anh Trường phải trả lãi, do vậy không xem xét.

Đối với số tiền 10.000.000đ chị Lan cho anh Trường vay nhưng không có giấy tờ, anh Trường không thừa nhận, chị Lan cũng không đưa ra được căn cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, do vậy yêu cầu của chị Lan là không có căn cứ chấp nhận.

[3] Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điều 463, 466, 470 Bộ luật dân sự năm 2015.

Căn cứ điều 235, 264, 266, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị L.

2. Buộc anh Nguyễn Xuân T phải có nghĩa vụ trả cho chị Dương Thị L số tiền 9.000.000đ (chín triệu đồng).

3. Không chấp nhận đơn khởi kiện của chị Dương Thị L yêu cầu anh Nguyễn Xuân T phải trả số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu lãi suất đối với số tiền chưa thi hành án theo quy định tại điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30, Luật thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Anh Nguyễn Xuân T phải chịu 450.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Chị Dương Thị L phải chịu 500.000đ tiền án phí đối với yêu cầu không được chấp nhận. Xác nhận chị Lan đã nộp 475.000đ tiền tạm ứng án phí tại biên lai số 005709, ngày 01/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Thành. Chị Lan còn phải nộp tiếp 25.000đ tiền án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

82
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 04/2023/DS-ST

Số hiệu:04/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về