Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 85/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 85/2022/DS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 28/2022/TLST-DS ngày 17 tháng 01 năm 2022 về “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2022/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hoàng Vũ Đ, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1978.

Chị Trần Thị H, sinh năm 1979.

Địa chỉ: Ấp M, xã T, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

(Anh Đ có mặt; anh N, chị H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng Vũ Đ tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án trình bày: Anh kinh doanh thức ăn gia súc có bán cho vợ chồng anh Nguyễn Văn N và chị Trần Thị H thức ăn gia súc tính đến ngày 26/11/2018 nợ tiền anh 174.489.000đồng. Sau đó anh tiếp tục bán cho anh N, chị H tính đến ngày 09/8/2020 nợ anh số tiền là 215.262.000đồng (vợ chồng anh N, chị H kí tên xác nhận nợ vào hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi). Anh có liên hệ nhiều lần để yêu cầu bị đơn trả tiền nợ nhưng bị đơn không trả tiền cho anh. Nay anh yêu cầu vợ chồng anh Nguyễn Văn N và chị Trần Thị H trả cho anh số tiền còn nợ là 215.262.000đồng.

- Bị đơn anh Nguyễn Văn N và chị Trần Thị H đã được tống đạt đầy đủ văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt và không có ý kiến trình bày đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn N và chị Trần Thị H dù được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh N, chị H.

[2] Về quan hệ pháp luật: Tranh chấp phát sinh giữa các đương sự là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại Điều 430 Bộ luật dân sự.

[3] Về nội dung: Xét thấy giữa các bên đương sự đã phát sinh hợp đồng mua bán thức ăn gia súc với nhau thể hiện qua “Hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi” cụ thể tính đến ngày 26/11/2018 vợ chồng anh N, chị H có nợ tiền anh Vũ Đ số tiền là 174.489.000đồng. Sau đó anh Vũ Đ tiếp tục bán cho anh N, chị H tính đến ngày 09/8/2020 nợ anh số tiền là 215.262.000đồng (vợ chồng anh N, chị H kí tên xác nhận vào hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi). Sau đó mặc dù anh Vũ Đ đã liên hệ nhiều lần để yêu cầu anh N, chị H trả tiền nhưng phía bị đơn vẫn không trả làm ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Đối với bị đơn từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay mặc dù nhận đầy đủ văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không lý do và cũng không cung cấp ý kiến đối với việc nguyên đơn khởi kiện xem như tự từ bỏ quyền bảo vệ quyền, lợi ích của mình. Do đó Hội đồng xét xử buộc anh N, chị H trả cho anh Vũ Đ 215.262.000đồng tiền thức ăn gia súc là phù hợp với quy định tại Điều 440 của Bộ luật dân sự.

[4] Về án phí: Anh Nguyễn Văn N và chị Trần Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 430, 440 và Điều 357 Bộ luật dân sự; Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Hoàng Vũ Đ.

Buộc anh Nguyễn Văn N và chị Trần Thị H phải trả cho anh Nguyễn Hoàng Vũ Đ số tiền thức ăn gia súc còn nợ là 215.262.000đồng.

Kể từ ngày anh Vũ Đ có đơn yêu cầu thi hành án nếu anh N, chị H chậm trả tiền thì còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất qui định tại Điều 357 Bộ luật dân sự tương ứng thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

2. Về án phí:

- Anh Nguyễn Văn N và chị Trần Thị H phải chịu 10.763.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn lại cho anh Nguyễn Hoàng Vũ Đ 5.382.000đồng tiền tạm ứng án phí theo theo biên lai thu số 0001222 ngày 17/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm. Đối với người vắng mặt thì thời hạn trên tính từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết công khai theo quy định pháp luật.

4. Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 85/2022/DS-ST

Số hiệu:85/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về