Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 72/2022/DS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 72/2022/DS-PT NGÀY 07/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Ngày 07 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2022/TLPT-DS ngày 10 tháng 02 năm 2022 về việc: Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.

Do bản án dân sự sơ thẩm số 70/2021/DS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện U Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 27/2022/QĐ-PT ngày 01 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Công ty TNHH Một thành viên Vật liệu xây dựng K.

Địa chỉ: Đường N, khóm 6,  phường X, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Quách Khánh H, sinh năm 1989 – Chức vụ: Giám đốc (Có mặt).

Địa chỉ: Số 49, L, khóm 5,  phường X, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Ông Hồng Quốc H, sinh năm 1977 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã K, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Thị T, sinh năm 1981 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp A, xã K, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

Người đại diện theo ủy quyền của ông Hồng Quốc H và bà Trần Thị T là ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1982; Địa chỉ: Số 97, Huỳnh T, khóm 7, phường 7, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (Văn bản ủy quyền ngày 11/6/2021) (Có mặt).

2. Chị Nguyễn Minh N, sinh năm 1996 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp Đ, xã K, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.

3. Anh Nguyễn Tấn T, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

4. Chị Châu Ngọc T, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

Cùng cư trú: Đường T, khóm 5, phường 5, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau.

5. Anh Hồng Trắc T, sinh năm 1988 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp 7, xã T, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau.

- Người kháng cáo: Ông Hồng Quốc H – là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn, Công ty TNHH Một thành viên vật liệu xây dựng K do người đại diện hợp pháp là bà Quách Khánh H trình bày:

Từ ngày 13/3/2018 đến ngày 22/8/2018 Ông H nhiều lần mua vật liệu xây dựng của Công ty TNHH Một thành viên vật liệu xây dựng K (gọi tắt là Công ty K) với số tiền là 405.833.000 đồng. Ông H đã thanh toán cho Công ty K là 311.500.000 đồng, còn nợ lại 94.333.000 đồng. Đến ngày 07/9/2018, ông H làm biên nhận cam kết sẽ thanh toán toàn bộ số tiền trên cho Công ty K, nhưng đến nay vẫn chưa thanh toán. Do đó Công ty K yêu cầu ông H trả 94.333.000 đồng.

Bị đơn, người đại diện theo ủy quyền của ông H và bà T trình bày: Ông H thừa nhận có mua vật liệu xây dựng của Công ty K nhiều lần. Từ ngày 13/3/2018 đến ngày 22/8/2018 ông H đã mua tổng số tiền là 405.833.000 đồng, ông H đã thanh toán số tiền 311.500.000 đồng, còn nợ lại Công ty K số tiền 94.333.000 đồng là đúng. Tuy nhiên, khi ông H mua vật liệu xây dựng ông H là phó giám đốc Công ty TNHH Hồng P Cà Mau (gọi tắt là Công ty Hồng P) do vợ ông H là bà Trần Thị T làm giám đốc. Tại thời điểm này, Công ty Hồng P có tham gia đấu thầu các gói dự án cải tạo, sửa chữa và xây dựng nhà máy Điện Cà Mau nên ông H đại diện Công ty Hồng P mua vật liệu xây dựng của Công ty K. Vào ngày 01/3/2019, ông H đã chuyển nhượng phần vốn góp cho ông Hồng Trắc T, ngày 07/01/2020 bà T chuyển nhượng phần vốn góp cho bà Châu Ngọc T, Vì vậy, ông H không có nghĩa vụ thanh toán khoản tiền vật tư còn nợ lại, mà trách nhiệm thanh toán là của Công ty TNHH Hồng P Cà Mau.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 70/2021/DS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện U Minh đã quyết định:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Vật liệu xây dựng K. Buộc ông Hồng Quốc H phải có nghĩa vụ thanh toán cho công ty TNHH MTV Vật liệu xây dựng K số tiền 94.333.000 đồng.

Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 13/12/2021, ông Hồng Quốc H có đơn kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nH yêu cầu khởi kiện của Công ty K.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Người đại diện theo ủy quyền của ông H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Hồng Quốc H, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện U Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét yêu cầu kháng cáo của ông Hồng Quốc H, Hội đồng xét xử xét thấy: Ông H thừa nhận đã trực tiếp mua vật liệu xây dựng của Công ty K từ ngày 13/3/2018 đến ngày 22/8/2018 với số tiền là 405.833.000 đồng, đã thanh toán số tiền 311.500.000 đồng, còn nợ lại 94.333.000 đồng. Ông H thừa nhận đã làm cam kết nợ vào ngày 07/9/2018 và hứa trả nợ cho Công ty K. Ông H cho rằng việc ông mua vật liệu xây dựng là mua cho Công ty Hồng P vì ông là Phó giám đốc của Công ty Hồng P do vợ ông H là bà Trần Thị T làm giám đốc Công ty Hồng P, nhưng ông H không có chứng cứ chứng minh việc ông H được Công ty Hồng P ủy quyền cho ông H đại diện Công ty Hồng P để mua vật liệu xây dựng. Số tiền ông H đã thanh toán tiền vật tư cho công ty K 311.500.000 đồng cũng được ông H thanh toán bằng tiền mặt với tư cách cá nhân. Tại hồ sơ thể hiện, từ ngày 27/7/2018 đến 26/2/2019 ông H đã mua vật tư của Công ty K và đề nghị xuất 09 hóa đơn mua hàng cho Công ty Hồng P (BL 29-37), tuy nhiên các khoản tiền thanh toán cho các hóa đơn mua hàng không được ông H chuyển cho Công ty Hồng P để thanh toán cho Công ty K mà do ông H thanh toán bằng tiền mặt với tư cách cá nhân, và ông H cũng đã ghi giấy cam kết cho Công ty K số tiền còn nợ và cam kết trả nợ, không có văn bản nào thể hiện số nợ này là của Công ty Hồng P. Tại phiên tòa, Công ty K cho rằng các hóa đơn ghi bán hàng hóa cho Công ty K là do ông H yêu cầu vì giữa Công ty K và Công ty Hồng P không có hợp đồng mua bán. Như vậy, mặc dù tại thời điểm ông H mua vật liệu xây dựng của Công ty K, ông H là Phó giám đốc Công ty Hồng P nhưng ông H không chứng minh được việc ông H đại diện cho Công ty Hồng P giao dịch mua vật liệu xây dựng với Công ty K, ông H cho rằng có giấy ủy quyền của Công ty Hồng P ủy quyền cho ông H mua vật liệu xây dựng cho Công ty Hồng P nhưng ông H cho rằng bị thất lạc, không cung cấp cho Tòa án được. Do đó không có cơ sở chấp nhận lời trình bày của ông H về số tiền nợ 94.333.000 đồng là khoản nợ của Công ty Hồng P. Ngoài ra, ông H có cung cấp các hóa đơn mua hàng thể hiện từ ngày 03/02/2018 đến ngày 16/6/2018 ông H cũng đã mua vật tư của Công ty K nhưng đề nghị xuất 13 hóa đơn cho Công ty TNHHMTV Hồng Như T (BL 132-144), tuy nhiên việc ông H mua hàng hóa cho Công ty Hồng Như T không có liên quan đến khoản nợ mà ông H nợ của Công ty K. Vì vậy không có cơ sở chấp nH lời trình bày của ông H.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông H và bà T cũng thừa nH, vào ngày 01/3/2019 ông H chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp cho ông Hồng Trắc T (BL 79), ngày 07/01/2020, bà T chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp cho chị Châu Ngọc T (BL 71,72). Ngày 16/6/2020 bà Châu Ngọc T chuyển nhượng vốn góp cho bà Nguyễn Minh Như (BL 49), ngày 01/7/2020 ông Hồng Trắc T chuyển nhượng vốn góp cho ông Nguyễn Tấn Tài và bà Nguyễn Minh Như làm giám đốc Công ty Hồng P từ ngày 19/6/2020 cho đến nay. Tại thời điểm ông H và bà T chuyển nhượng phần vốn góp, ông H cũng không đề cập đến số nợ 94.333.000 đồng mà ông H đã mua vật liệu của Công ty K cho Công ty Hồng P. Thời điểm này, bà T cũng không có ý kiến gì về khoản nợ trên là của Công ty Hồng P như ông H trình bày, sau khi bà T chuyển nhượng phần vốn góp thì bà T đã đi khỏi địa phương. Theo xác nhận ngày 20/6/2021, chính quyền địa phương ấp An Phú, xã K đã xác nhận bà Thuý bỏ địa phương đi hơn 01 năm đến nay không biết địa chỉ (BL 131). Do đó, không có căn cứ xác định nghĩa vụ thanh toán khoản nợ 94.333.000 đồng do ông H thừa nhận nợ là khoản nợ của Công ty Hồng P. Do không có chứng cứ chứng minh khoản nợ của ông H là của Công ty Hồng P và hiện nay do bà Như làm giám đốc, nên không có cơ sở để đưa Công ty Hồng P vào tham gia tố tụng. Vì vậy tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của ông H yêu cầu hủy án sơ thẩm để đưa Công ty Hồng P vào tham gia tố tụng để buộc trả nợ cho ông H là không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của ông H và bà T không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của ông H nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông H, nên ông H phải nộp theo quy định.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Hồng Quốc H. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 70/2021/DS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Một thành viên Vật liệu xây dựng K. Buộc ông Hồng Quốc H phải có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty TNHH Một thành viên Vật liệu xây dựng K số tiền 94.333.000 đồng (Chín mươi bốn triệu ba trăm ba mươi ba nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Ông Hồng Quốc H phải chịu án phí dân sự 4.716.650 đồng (Bốn triệu bảy trăm mười sáu nghìn sáu trăm năm mươi đồng).

Công ty TNHH Một thành viên Vật liệu xây dựng K không phải chịu án phí. Hoàn trả lại cho Công ty TNHH Một thành viên vật liệu xây dựng K số tiền tạm ứng án phí dân sự 2.358.000 đồng (Hai triệu ba trăm năm mươi tám nghìn đồng) tại biên lai số 0006081 ngày 02 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.

3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Hồng Quốc H phải nộp 300.000 đồng. Ngày 29/12/2021, ông H có dự nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng theo biên lai thu số 0010168 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau được chuyển thu đối trừ.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án, hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán số 72/2022/DS-PT

Số hiệu:72/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 07/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về