Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 60/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BN ÁN 60/2022/DS-ST NGÀY 25/11/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 11 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:

86/2022/TLST-DS ngày 12 tháng 10 năm 2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 95/2022/QĐXXST-DS ngày 07 tháng 11 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyên Văn N, sinh năm 1960; cư trú tại: Ấp H, xã P, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Trí Ng, sinh năm 1979; cư trú tại: Ấp M, xã VĐ, huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

Nguyên đơn có mặt; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày:

Ông và ông Nguyễn Trí Ng là chỗ quen biết. Trong thời gian từ tháng 02/2020, ông có nhiều lần bán gà trống đá và gà giống cho ông Nguyễn Trí Ng;

sau khi bán gà ông Ng hứa vài ngày sẽ thanh toán tiền nhưng chưa thanh toán đủ. Tính đến ngày 30/7/2020, ông Ng còn nợ ông tiền mua gà là 366.000.000đ. Ông và ông Ng có làm biên nhận lập ngày 30/7/2020, nội dung ghi nhận việc ông Ng còn nợ ông số tiền mua gà là 366.000.000đ; ông Ng có ký tên vào biên nhận nợ hứa đến ngày 30/7/2021 trả 300.000.000đ, ngày 15/8/2021 trả 66.000.000đ. Tuy nhiên, đến nay ông Ng vẫn chưa trả tiền cho ông. Nay ông yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông Nguyễn Trí Ng phải trả cho ông số tiền mua gà còn nợ 366.000.000đ; không yêu cầu tính lãi.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 31/10/2022 bị đơn ông Nguyễn Trí Ng trình bày: Ông và ông Nguyễn Văn N có thực hiện giao dịch mua bán gà nòi giống với nhau từ trước năm 2019. Trước đây khi mua gà của ông N thì ông có trả tiền đầy đủ, từ năm 2019 thì ông có nợ lại mỗi lần mua một ít. Đến ngày 30/7/2020 ông và ông N có chốt số tiền nợ và ông có ký biên nhận nợ của ông N số tiền mua gà là 366.000.000đ. Sau đó, ông có trả cho ông N được 6.000.000đ nhưng không có làm biên nhận và không nhớ chính xác đã trả ngày nào. Nay ông đồng ý trả cho ông N số tiền mua gà còn nợ 360.000.000đ nhưng yêu cầu được trả dần, do ông không có khả năng thanh toán một lần.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang trình bày quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, các đương sự đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn Nguyễn Trí Ng vắng mặt và có đơn xin vắng mặt. Đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định.

Về nội dung vụ án: Ông Ng thừa nhận có nợ tiền mua gà của ông N là 366.000.000đ; việc thừa nhận của bị đơn là tình tiết không cần phải chứng minh. Ông Ng cho rằng có trả cho ông N dược 6.000.000đ nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh và không được ông N thừa nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Ng phải trả cho ông N số tiền mua gà còn nợ 366.000.000đ. Về án phí, buộc đương sự phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

[1]. Các đương sự thực hiện giao dịch dân sự về việc mua bán gà, quá trình thực hiện hợp đồng phát sinh tranh chấp về số tiền chưa thanh toán. Xác định đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”. Căn cứ theo quy định tại Điều 26, 35 và 39 Bộ luật Tố tụng dân sự; vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

[2]. Bị đơn ông Nguyễn Trí Ng quá trình giải quyết vụ án có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn nhưng đảm bảo quyền, nghĩa vụ của đương sự theo quy định pháp luật.

Về nội dung vụ án:

[3]. Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ; qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1]. Trước năm 2019, ông N và ông Ng có thường xuyên thực hiện giao dịch dân sự mua bán gà nòi giống với nhau; việc thực hiện giao dịch không có lập hợp đồng bằng văn bản mà chỉ thỏa thuận bằng lời nói. Trong các lần mua bán trước đó các bên đã thanh toán nợ xong. Từ năm 2019 đến tháng 02/2020, ông Ng có mua gà của ông N nhưng còn nợ tiền và hứa sẽ thanh toán sau. Đến ngày 30/7/2022, ông Ng có ký biên nhận ghi nợ tiền mua gà của ông N là 366.000.000đ, hứa đến ngày 30/7/2021 trả 300.000.000đ, ngày 15/8/2021 trả 66.000.000đ. Tuy nhiên đến thời hạn thanh toán nhưng ông Ng vẫn chưa trả tiền cho ông N. Quá trình giải quyết vụ án ông Ng thừa nhận có nợ tiền mua gà của ông N 366.000.000đ nhưng ông Ng cho rằng đã trả được 6.000.000đ, lúc trả không có làm giấy tờ gì và cũng không nhớ đã trả vào ngày nào. Sự thừa nhận của đương sự là chứng cứ không cần phải chứng minh. Việc ông Ng cho rằng đã trả cho ông N được 6.000.000đ nhưng không được ông N thừa nhận, ông Ng cũng không cung cấp được chứng cứ gì để chứng minh nên lời trình bày của ông Ng là không có cơ sở.

[3.2] Việc ông Ng mua gà và còn nợ tiền của ông N đến nay chưa thanh toán làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông N. Do đó, ông N yêu cầu ông Ng trả số tiền mua gà còn nợ 366.000.000đ là có căn cứ chấp nhận. Ông N không yêu cầu tính lãi nên không xem xét.

[4]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Ông Nguyễn Trí Ng phải chịu 18.300.000đ án phí dân sự sơ thẩm; ông Nguyễn Văn N được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

[5]. Từ những nhận định nêu trên, có căn cứ chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, 35, 39, 92, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng Điều 430, 440, 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn N về việc yêu cầu ông Nguyễn Trí Ng phải trả tiền mua gà còn nợ.

2. Buộc ông Nguyễn Trí Ng phải trả cho ông Nguyễn Văn N số tiền mua gà còn nợ 366.000.000đ (ba trăm sáu mươi sáu triệu đồng).

3. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Về án phí: Ông Nguyễn Trí Ng phải chịu 18.300.000đ (mười tám triệu ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn N được nhận lại 9.150.000đ (chín triệu một trăm năm mươi nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0006476 lập ngày 12 tháng 10 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết, tống đạt theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 60/2022/DS-ST

Số hiệu:60/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về