TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 136/2022/DS-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Trong ngày 23 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 150/2021/TLST-DS ngày 05 tháng 5 năm 2021 về việc tranh chấp “Hợp đồng mua bán tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 355/2022/QĐST-DS ngày 09 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH CJ Vina A; địa chỉ trụ sở chính C, 18 H, K, Trung Quốc; địa chỉ trụ sở tại Việt Nam: 1, xã M, huyện B, tỉnh Long An;
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Nam Ki Don; tổng giám đốc; là người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn Ông Phan Hoàng H, sinh năm 1988; nơi cư trú: Công ty TNHH CJ V, quốc lộ 1, xã M, huyện B, tỉnh Long An; là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, có mặt
- Bị đơn: Bà Trần Thị Lệ T, sinh năm 1969; nơi cư trú: ấp L, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; xin vắng mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đào Văn C, sinh năm 1950; nơi cư trú: : ấp L, xã K, huyện C, tỉnh An Giang; xin vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, tờ tự khai nguyên đơn Công ty Trách nhiệm Hữu hạn CJ Vina A trình bày: Ngày 01/01/2016, bà T và Công ty Trách nhiệm Hữu hạn CJ Vina A mua có ký hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi gia súc, phương thức thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Ngày 04/3/2021, bà T còn nợ công ty số tiền 63.816.449 đồng. Công ty đã nhiều lần yêu cầu bà T thanh toán nợ nhưng bà T không trả nay yêu cầu bà T trả cho công ty số tiền mua bán thức ăn còn nợ 63.816.449 và tiền lãi phạt hợp đồng 5.105.316 đồng, lãi chậm thanh toán 15.954.112 đồng. Tổng cộng số tiền yêu cầu bà T trả 84.875.877 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện ủy quyền của Công ty Trách nhiệm Hữu hạn CJ Vina A trình bày: Ngày 01/01/2016, bà T và Công ty Trách nhiệm Hữu hạn CJ Vina A mua có ký hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi gia súc, phương thức thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản. Ngày 04/3/2021, bà T còn nợ công ty số tiền 63.816.449 đồng. Công ty đã nhiều lần yêu cầu bà T nhưng bà T không trả nay yêu cầu bà T trả cho công ty số tiền mua bán thức ăn còn nợ 63.816.449 và tiền lãi phạt hợp đồng 5.105.316 đồng, lãi chậm thanh toán 15.954.112 đồng. Tổng cộng số tiền yêu cầu bà T trả 84.875.877 đồng.
Tại tờ tự khai bà Trần Thị Lệ T trình bày: Bà có mua bán thức ăn với Công ty Trách nhiệm Hữu hạn CJ Vina A và đến thời điểm hiện tại bà còn nợ công ty số tiền 55.000.000 đồng, do không có khả năng trả nợ khi nào có khả năng bà sẽ trả lại cho công ty số tiền còn nợ, yêu cầu tính lãi bà không đồng ý.
Ông Đào Văn C trình bày: Ông đứng tên chủ hộ kinh doanh U, việc bà T mua bán thức ăn với công ty, ông không biết.
Tại phiên tòa: người đại diện ủy quyền của nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện do bà T có trả cho công ty tổng cộng số tiền 10.000.000 đồng, yêu cầu bà T trả số tiền còn nợ 53.816.449 đồng, công ty xin rút yêu cầu tính lãi.
Bị đơn bà Trần Thị Lệ T xin xét xử vắng mặt Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đào Văn C xin vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật.
Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 288, 430, 440, 468 Bộ luật dân sự, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự đề nghị:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn.
Buộc bà Trần Thị Lệ T trả số tiền còn nợ công ty 53.816.449; Đình chỉ yêu cầu tính lãi của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
* Về tố tụng:
[1]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu trả số tiền mua thuốc thú y và thức ăn gia súc còn nợ cho nguyên đơn đây là tranh chấp dân sự hợp đồng mua bán tài sản thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn có nơi cư trú tại xã L, huyện C, tỉnh An Giang. Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định Điều 26; 35; 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ pháp luật: Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina Agri khởi kiện yêu cầu bà Trần Thị Lệ T trả số tiền mua thức ăn còn nợ. Đây là quan hệ tranh chấp về dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án thụ lý quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản.
[3]. Về tư cách, sự vắng mặt của đương sự: Căn cứ Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina A, bị đơn bà Trần Thị Lệ T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đào Văn C.
Trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa hôm nay người đại diện họp pháp của nguyên đơn có mặt; bị đơn T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông C xin vắng mặt. Do đó, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự nên Tòa án tiến hành xét xử theo quy định pháp luật.
[4]. Về thu thập chứng cứ:
Nguyên đơn cung cấp hợp đồng mua bán thức ăn, Tòa án đã tiến hành thủ tục thông báo kết quả phiên họp cho bị đơn nhưng bị đơn không có ý kiến phản đối về chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp, bị đơn cũng thừa nhận có mua bán thức ăn với công ty. Căn cứ Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp là chứng cứ để giải quyết vụ án.
* Về nội dung vụ án:
[5]. Về hợp đồng, yêu cầu khởi kiện: Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina A yêu cầu bà Trần Thị Lệ T trả số tiền 58.816.449 đồng. Tại tờ tự khai của nguyên đơn, trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện ủy quyền của nguyên đơn ông Hiệp xác định nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina A có hợp đồng mua bán thức ăn chăn nuôi cho bà T. Quá trình giải quyết vụ án, bà T thừa nhận còn nợ công ty số tiền 55.000.000 đồng. Do bà T không thục hiện đúng nghĩa vụ đã giao kết, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina A. Căn cứ Điều 430, Điều 440 Bộ luật dân sự 2015 bị đơn có trách nhiệm trả cho nguyên đơn số tiền còn nợ.
[6].Về yêu cầu tính lãi: Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina A rút lại yêu cầu tính lãi là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật và có lợi cho bị đơn, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 217, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[8]. Từ những cơ sở phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà T có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina A số tiền vốn 58.816.449 đồng, đình chỉ yêu cầu tính lãi của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới về quan điểm giải quyết án.
[9]. Về án phí dân sự sơ thẩm Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn được nhận lại số tiền tạm ứng án phí.
Bị đơn phải chịu án phí theo quy định pháp luật Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 26, 35, 39, 68, 92, 144, 147, 217, 227, 228, 244 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 288, 430, 440, 468 của Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 27 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina A.
Buộc ông Trần Thị Lệ T có trách nhiệm liên đới trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina A số tiền vốn 53.816.449 (năm mươi ba triệu tám trăm mười sáu nghìn bốn trăm bốn mươi chín nghìn) đồng.
Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu tính lãi tiền lãi phạt hợp đồng 5.105.316 đồng, lãi chậm thanh toán 15.954.112 đồng.
Về án phí: Bà Trần Thị Lệ T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 2.691.000 (hai triệu sáu trăm chín mươi mốt nghìn) đồng.
Công ty trách nhiệm hữu hạn CJ Vina A được nhận lại số tiền tạm ứng án phí là 2.121.000 (hai triệu một trăm hai mươi mốt nghìn) đồng theo biên lai số 0002714 ngày 05 tháng 02 năm 2021 của chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản số 136/2022/DS-ST
Số hiệu: | 136/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về