Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2023/KDTM-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 01/2023/KDTM-ST NGÀY 22/03/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 22/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh; xét xử sơ thẩm công khai vụ thụ lý số: 05/2022/TLST- KDTM ngày 22 tháng 11 năm 2022, về việc ''Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2023/QĐXX-ST ngày 13/2/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2023/QĐST-KDTM ngày 01/3/2023 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty TNHH sản xuất B;

Địa chỉ: Cụm Công nghiệp L, phường L, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Văn H, chức vụ: Giám đốc. Đại diện theo ủy quyền: Công ty Luật TNHH H. Người đại diện: Ông Nguyễn Mạnh H, chức vụ: Giám đốc công ty.

Địa chỉ: Số 75 Nguyễn Huy T, phường S, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (Có mặt).

Bị đơn: Công ty TNHH H.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương V, chức vụ: Giám đốc; Cùng địa chỉ: Thôn Vân K, xã Hiên V, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 17/11/2022, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn xuất trình và tại phiên tòa đại diện nguyên đơn trình bày:

Ngày 15/03/2012 Công ty TNHH sản xuất bê tông xây dựng B (Gọi tắt là công ty B) có ký hợp đồng mua bán cung cấp bê tông thương phẩm để phục vụ thi công công trình cho Công ty TNHH H (Gọi tắt là công ty H). Theo hợp đồng số 18-HĐKT. Theo các điều từ điều 1 đến điều 7 của hợp đồng mua bán với Công ty TNHH H theo thỏa thuận thống nhất ký kết các điều trong hợp đồng về nội dung đến chất lượng sản phẩm bê tông thương phẩm theo tiêu chuẩn kỹ thuật được giao và nhận thực tế, cũng như quy định rõ trách nhiệm của mỗi bên, về điều khoản thanh toán và hình thức thanh toán, nội dung thanh toán, cũng như các điều khoản khác. Sau khi hợp đồng được ký kết hai bên đã tổ chức thực hiện hợp đồng như sau:

Công ty TNHH sản xuất bê tông xây dựng B đã giao hàng bên tông thương phẩm cho Công ty TNHH H cụ thể các lần như sau:

- Ngày 16/03/2012 bê tông mác 200, 31 m3, đơn giá 770.000 đồng/1 m3 = 45.600.000 đồng;

- Ngày 02/4/2012 bê tông mác 200, 10 m3, đơn giá 770.000 đồng/1 m3 = 7.700.000 đồng;

- Ngày 07/05/2012 bê tông mác 200, 90 m3, đơn giá 770.000đồng/1 m3 = 69.300.000 đồng;

- Ngày 09/05/2012 bê tông mác 200, 90 m3, đơn giá 770.000đồng/1 m3 = 69.300.000 đồng;

- Ngày 16/05/2012 bê tông mác 200, 110 m3, đơn giá 770.000đồng/1 m3 = 84.700.000 đồng;

Công ty TNHH H đã trả tiền bê tông cho Công ty TNHH sản xuất bê tông xây dựng B 06 lần, cụ thể các lần như sau:

- Ngày 18/3/2012 bên A trả cho bên B = 10.000.000 đồng;

- Ngày 25/5/2012 bên A trả cho bên B = 20.000.000 đồng;

- Ngày 04/8/2012 bên A trả cho bên B = 20.000.000 đồng;

- Ngày 01/10/2012 bên A trả cho bên B = 10.000.000 đồng;

- Ngày 18/12/2012 bên A trả cho bên B = 15.000.000 đồng;

- Ngày 07/02/2013 bên A đã trả tiền cho bên B = 100.000.000 đồng.

Tổng số tiền công ty TNHH H đã trả cho công ty TNHH sản xuất bê tông xây dựng B là 175.000.000 đồng. Căn cứ vào biên bản xác nhận công nợ ngày 30/09/2013 và bảng chi tiết công nợ, thì Công ty H còn nợ tiền hàng của Công ty B số tiền là 101.637.000 đồng. Trong tổng số tiền trên đối với hợp đồng mua bán bê tông công ty H còn nợ số tiền là 79.870.000 đồng, còn 21.767.000 đồng là số tiền công ty H còn nợ, tuy nhiên không liên quan tới hợp đồng này, tại phiên toà hôm nay đại diện công ty B không có ý kiến yêu cầu trong vụ án này nên tự nguyện xin rút đối với phần tiền này. Công ty H đã nhiều lần làm thông báo giấy đề nghị thanh toán công nợ, thông báo gọi điện thoại nhưng Công ty H không hợp tác, đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo điều 5 của hợp đồng. Tại đơn khởi kiện, biên bản tự khai và tại phiên tòa thì Công ty B yêu cầu Công ty H phải trả số tiền còn nợ là 79.870.000 đồng, không yêu cầu lãi xuất.

Ngoài ra công ty B không có ý kiến yêu cầu gì khác Bị đơn: Công ty TNHH H do ông Dương V, chức vụ: Giám đốc, là người đại diện theo pháp luật vắng mặt tại phiên toà.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du phát biểu ý kiến đã đánh giá việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký là đúng pháp luật; Nguyên đơn chấp hành tốt pháp luật; đại diện của bị đơn vắng mặt tại các buổi làm việc, phiên họp về việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải và các phiên toà. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ các Điều 357, 440, 468 Bộ luật dân sự năm 2005;

Căn cứ vào các Điều 50; Điều 317 Luật thương mại năm 2005;

Căn cứ Nghị Quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn Công ty B. Buộc Công ty H phải thanh toán trả cho Công ty TNHH sản xuất bê tông xây dựng B số tiền còn nợ là 79.870.000 đồng. Chấp nhận đề nghị của công ty B về việc xin rút 1 phần yêu cầu đối với số tiền 21.767.000 đồng công ty H nợ công ty B.

Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí Kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ và các chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền và thủ tục tố tụng:

- Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Ngày 17/11/2022, Công ty B có đơn khởi kiện công ty H có nghĩa vụ trả cho Công ty B số tiền còn nợ gốc là 101.637.000 đồng. Công ty B đã nộp tiền tạm ứng án phí theo quy định.

Tại phiên toà đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn xin rút 1 phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền 21.767.000 đồng không liên quan tới hợp đồng kinh tế số 18-HĐKT mua bán cung cấp bê tông thương phẩm, chỉ yêu cầu công ty H phải trả số tiền nợ là 79.870.000 đồng. HĐXX xét thấy việc xin rút của nguyên đơn là tự nguyện đúng quy định pháp luật, được Toà án chấp nhận nên đình chỉ yêu cầu trên của nguyên đơn.

Về chủ thể công ty B và công ty H là hai công ty có tư cách pháp nhân, có đăng ký kinh doanh hợp pháp, hoạt động vì mục đích lợi nhuận, việc hai công ty tranh chấp nêu trên Toà án xác định là vụ án kinh doanh thương mại có quan hệ tranh chấp là tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa vì hai bên căn cứ vào hợp đồng và hợp đồng vẫn chưa thực hiện xong. Bị đơn trụ sở tại xã Hiên V, huyện Tiên Du. Căn cứ vào Hợp đồng mua bán hàng hóa ký giữa các bên, trên cơ sở đối chiếu với các quy định tại các Điều 30, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Toà án nhân dân huyện Tiên Du, thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Trong vụ án không có đương sự đề nghị áp dụng thời hiệu.

- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà: Bị đơn là công ty H đại diện theo pháp luật là ông Dương V, chức vụ: giám đốc, Toà án đã triệu tập ông Khuông nhiều lần, nhưng ông Khuông không chấp hành, không lên làm việc, Toà án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng và niêm yết theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông Dương V vắng mặt tại các phiên họp về việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải và tại các phiên toà. Vì vậy căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn công ty B về việc yêu cầu công ty H phải trả cho Công ty B số nợ còn thiếu là 79.870.000 đồng và không yêu cầu lãi suất.

Hội đồng xét xử xét thấy: Ngày 15/03/2012 Công ty TNHH B có ký hợp đồng số 18-HĐKT mua bán cung cấp bê tông thương phẩm để phục vụ thi công công trình cho Công ty H. Hợp đồng được hai bên lập thành văn bản, do người có thẩm quyền ký kết, nội dung, thoả thuận và các điều khoản đều thể hiện ý chí tự nguyện của các bên giao kết hợp đồng và phù hợp với quy định của pháp luật về nội dung và hình thức nên hợp đồng này là hợp pháp. Do đó, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết và các bên phải có trách nhiệm thực hiện các thoả thuận đã cam kết.

Sau khi hợp đồng được ký kết hai bên đã tổ chức thực hiện hợp đồng như sau: Công ty B đã giao hàng bên tông thương phẩm cho Công ty H đầy đủ. Phía công ty B đã xuất hoá đơn đầy đủ cho công ty H.

Công ty TNHH H đã trả một phần tiền bê tông cho Công ty B là 175.000.000 đồng. Ngày 30/09/2013 hai bên đã lập biên bản xác nhận công nợ thể hiện Công ty H còn nợ tiền mua bê tông của Công ty B số tiền là 101.637.000 đồng, trong đó số tiền nợ hợp đồng mua bán bê tông là 79.870.000 đồng.

Công ty H đã nhiều lần làm thông báo, giấy đề nghị thanh toán công nợ, thông báo gọi điện thoại và đến tận công ty và gia đình ông Khuông nhưng Công ty H không hợp tác, đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo điều 5 của hợp đồng nên Công ty B đã khởi kiện tại Toà án yêu cầu Công ty H phải trả số tiền còn nợ là 79.870.000 đồng, không yêu cầu lãi xuất; Yêu cầu trên của công ty B là có căn cứ nên được chấp nhận.

[3] Xét lời đề nghị của đại diện VKS nhân dân huyện Tiên Du là có căn cứ nên chấp nhận.

[4] Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận vì vậy bị đơn phải chịu toàn bộ án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm theo quy định. Công ty B không phải chịu án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm nên được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 30, 35, 39, 227, 228, 262, 264, 266, 267, 271, 273 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ các Điều 357, 468 Bộ luật dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 24, Điều 50, Điều 55, Điều 317 Luật thương mại năm 2005;

Căn cứ Nghị Quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH sản xuất bê tông xây dựng B đối với Công ty TNHH H.

Buộc Công ty TNHH H phải thanh toán trả cho Công ty TNHH sản xuất bê tông xây dựng B số tiền là 79.870.000 đồng.

Kể từ ngày Quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, người phải người thi hành án không tự nguyện thi hành thì phải chịu lãi suất tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2, điều 468 Bộ luật dân sự 2015 cho đến khi thi hành xong.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện về việc đòi số tiền 21.767.000 đồng của Công ty TNHH sản xuất bê tông xây dựng B.

2. Về án phí: Công ty TNHH H phải chịu 3.993.000 đồng (Đã làm tròn số) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm. Hoàn trả cho Công ty TNHH sản xuất bê tông xây dựng B 2.540.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: AA/2021/0002275 ngày 21/11/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án niêm yết hợp lệ theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa số 01/2023/KDTM-ST

Số hiệu:01/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 22/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về