TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 145/2022/DS-PT NGÀY 10/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI
Ngày 10 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2022/TLPT-DS ngày 13 tháng 6 năm 2022, về việc tranh chấp về hợp đồng dân sự góp hụi, họ.Do bản án dân sự sơ thẩm số 14/2022/DS-ST ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 86/2022/QĐ-PT ngày 20 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:
Các đồng nguyên đơn:
1. Bà Lư Thị X, sinh năm 1966. (Vắng mặt)
2. Bà Huỳnh Thị Ch, sinh năm 1986. (Có mặt)
3. Bà Phạm Thị L, sinh năm 1961 Cùng địa chỉ: Ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh H, huyện U Minh Th, tỉnh Kiên Giang
4. Bà Vũ Thị H, sinh năm 1980. (Có mặt) Địa chỉ cư trú: Ấp Đặng Văn D, xã Thạnh Y, huyện U Minh Th, tỉnh Kiên Giang
5. Bà Lê Thị Minh G, sinh năm 1972. (Có mặt)
6. Bà Lê Minh T, sinh năm 1967. (Có mặt)
7. Bà Bùi Thị Th, sinh năm 1969. (Có mặt) Cùng địa chỉ: Ấp Công S, xã An Minh B, huyện U Minh Th, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện hợp pháp của đồng nguyên đơn:
Ông Châu Văn Ấ, sinh năm 1960 - Địa chỉ: Đường số 12, Nguyễn Trung Tr, thị trấn Vĩnh Th, huyện Vĩnh Th, tỉnh Kiên Giang. (Theo văn bản ủy quyền ngày 27/6/2022). (Có mặt)
Bị đơn:
1. Bà Hồ Thị Tuyết X ( S); sinh năm 1970. (Có mặt) Địa chỉ: Ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh H, huyện U Minh Th, tỉnh Kiên Giang.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bà Hồ Thị Tuyết X: Luật sư Lê Hoàng Nh và Nguyễn Bằng L – Công ty luật hợp danh Tạ Nguyệt Th – Đoàn luật sư tỉnh Bạc Liêu. (Có mặt)
2. Chị Trần Thị Thu V, sinh năm 1993 (con dâu bà X). (Có mặt)
3. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1968 (Chết); Người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn H: Ông Nguyễn Chí T; Ông Nguyễn Chí L; (Vắng mặt) Cùng địa chỉ: Ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh H, huyện U Minh Th, tỉnh Kiên Giang.
Bà Nguyễn Thị Th. (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp Rạch H, xã Hàm N, thành phố Phú Q, tỉnh Kiên Giang.
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Hồ Thị Tuyết X và Trần Thị Thu V.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2020 và đơn khởi kiện bổ sung ngày 21/5/2021 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Lư Thị X trình bày và yêu cầu khởi kiện như sau:
Bà X có tham gia chơi hụi do bà Hồ Thị Tuyết X, chị Trần Thị Thu V làm chủ hụi, cụ thể:
Dây hụi áp ngày 18/12/2017 âm lịch, giá 2.000.000 đồng, có 34 chưng, hụi mỗi tháng xổ 01 lần vào ngày 18, bà X tham gia 02 chưng (dây hụi mãn vào ngày 18/8/2020 âm lịch). Đến ngày 18/02/2020 âm lịch bà X, chị V tuyên bố bể hụi thì bà X đóng tiền hụi cho bà X được 26 lần, thành tiền 104.000.000 đồng.
Ngày 13/3/2020 Tổ hòa giải ấp Vĩnh Thành mở phiên hòa giải, tại buổi hòa giải bà X, chị V thừa nhận nợ và cam kết trả mỗi tháng 6.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Đến ngày 13/4/2020 bà X, chị V trả được 6.000.000 đồng, số tiền còn nợ là 98.000.000 đồng.
Bà X yêu cầu bà X, chị V trả tiền hụi còn thiếu là 26 lần x 2.000.000 đồng x 2 phần = 104.000.000 đồng – 6.000.000 đồng = 98.000.000 đồng.
Tuy nhiên, tại phiên hòa giải bà X đồng ý để chị V trả mỗi chân hụi là 1.500.000đ x 26 lần x 02 = 78.000.000đ. Chị V trả cho bà X được 6.000.000 đồng, còn lại nợ bà X số tiền 72.000.000 đồng. Bà X yêu cầu phía bị đơn trả lần một hết nợ, không yêu cầu tính tiền lãi.
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2020, đơn khởi kiện bổ sung ngày 21/5/2021 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Huỳnh Thị Ch trình bày và yêu cầu khởi kiện như sau:
Bà Huỳnh Thị Ch có tham gia chơi hụi do bà Hồ Thị Tuyết X, chị Trần Thị Thu V làm chủ hụi, cụ thể:
+ Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 18/12/2017 âm lịch, giá 2.000.000 đồng, có 34 chưng, hụi mỗi tháng xổ 01 lần vào ngày 18, bà Ch tham gia 01 chưng (dây hụi mãn vào ngày 18/8/2020 âm lịch). Tính đến ngày 18/02/2020 âm lịch bà X tuyên bố bể hụi thì bà Ch đóng tiền hụi cho bà X, chị V được 26 lần, thành tiền 52.000.000 đồng.
+ Dây hụi thứ hai: Áp ngày 15/10/2018 âm lịch, giá 1.000.000 đồng, có 20 chưng, bà Ch tham gia 04 chưng (dây hụi mãn vào ngày 15/7/2020 âm lịch). Trong đó có 01 chưng hụi chết đóng được 16 lần, bà Ch còn nợ bà X, chị V 04 lần hụi sống là 4.000.000 đồng, còn lại 03 chưng hụi sống bà Ch đóng đến ngày 15/02/2020 âm lịch được 16 lần, thành tiền là 48.000.000 đồng. Sau khi trừ hụi chết 4.000.000 đồng thì bà X còn nợ bà Ch, chị V số tiền 44.000.000 đồng.
Ngày 24/8/2018 âm lịch bà Ch mua lại 01 chưng hụi của bà Trần Thị Hoài Th trong dây hụi áp ngày 18/12/2017 âm lịch, hụi giá 2.000.000 đồng do bà X, chị V làm chủ hụi, số tiền 45.000.000 đồng, sau khi mãn hụi bà X, chị V trả lại cho bà Ch số tiền 68.200.000 đồng.
Trong quá trình chơi hụi bà Ch còn nợ hụi chết bà X, chị V trong dây hụi áp ngày 07/8/2018 âm lịch, hụi giá 1.000.000 đồng, nợ 07 lần hụi chết số tiền 7.000.000 đồng và trong dây hụi áp ngày 14/12/2018 âm lịch, hụi giá 1.000.000 đồng, nợ 02 lần hụi chết, số tiền 2.000.000 đồng. Tổng cộng bà Ch nợ tiền hụi chết của bà X, chị V là 9.000.000 đồng.
Như vậy, tính đến ngày 15/02/2020 âm lịch bà X, chị V còn nợ bà Ch số tiền 164.200.000 đồng – 9.000.000 đồng = 155.200.000 đồng.
Bà Ch có nhờ chính quyền địa phương giải quyết, đến ngày 13/3/2020 Tổ hòa giải ấp Vĩnh Thành mở phiên hòa giải, tại buổi hòa giải bà X, chị V thừa nhận nợ và cam kết trả mỗi tháng 7.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Đến ngày 13/4/2020 bà X, chị V trả được 7.000.000 đồng.
Bà Ch yêu cầu bà X, chị V trả tiền hụi còn thiếu là 148.200.000 đồng (một trăm bốn mươi tám triệu, hai trăm nghìn đồng), không yêu cầu tính lãi.
Bà Ch đồng ý chốt nợ với bà V là 135.200.000đ – 7.000.000đ = 128.200.000 đồng, bà yêu cầu phía bị đơn trả một lần là dứt nợ 128.200.000 đồng, không yêu cầu tính tiền lãi.
Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/11/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Phạm Thị L trình bày và yêu cầu khởi kiện như sau:
Bà L có tham gia một dây hụi do bà Hồ Thị Tuyết X làm chủ hụi:
Dây hụi áp ngày 07/8/2018 (âm lịch), có 25 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà L tham gia 2 phần, tính đến ngày 07/8/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà L đóng đến ngày 07/01/2020 được 18 lần x 1.000.000đ/tháng x 2 = 36.000.000đ. bà Xương tuyên bố vỡ hụi.
Ngày 30/3/2020 bà X có trả cho bà số tiền 3.500.000đ, đến nay không trả nữa bà L nhiều lần đòi tiền nhưng vợ chồng bà X hứa mà không trả.
Bà Phạm Thị L yêu cầu phía bị đơn trả cho bà L số tiền hụi còn nợ là 32.500.000đ (ba mươi hai triệu năm trăm nghìn đồng). Bà yêu cầu bà X, chị V trả cho bà như cam kết ngày 13/3/2020 số tiền 28.800.000 đồng trừ đi 3.500.000 đồng đã trả, số tiền bà X và chị V trả cho bà 25.300.000 đồng, không yêu cầu tính tiền lãi.
Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/11/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Vũ Thị H trình bày và yêu cầu khởi kiện như sau: Bà H có tham gia hai dây hụi do bà Hồ Thị Tuyết X, chị V làm chủ hụi cụ thể.
Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 18/12/2017 (âm lịch), có 34 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà H tham gia 1 phần, tính đến ngày 18/8/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà H đóng đến ngày 18/02/2020 được 26 lần x 2.000.000đ/phần = 52.000.000đ.
Dây hụi thứ hai: Áp ngày 20/10/2019 (âm lịch), có 15 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà H tham gia 1 phần, tính đến ngày 20/11/2021 (âm lịch) hụi mãn, bà H đóng đến ngày 20/01/2020 được 4 lần x 2.000.000đ/chân = 8.000.000đ.
Tổng cộng số tiền vợ chồng bà X, nợ là 60.000.000đ.
Ngày 30/3/2020 bà X có trả cho bà số tiền 6.000.000đ, đến nay không trả nữa bà H nhiều lần đòi tiền nhưng vợ chồng bà X hứa mà không trả.
Tại phiên hòa giải chị V xin trả mỗi phần hụi cho bà H là 1.500.000đ/phần x 30 lần = 45.000.000 đồng – 6.000.000đ = 39.000.000đ.
Nay bà yêu cầu bà X, chị V trả cho bà số tiền 39.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Lê Thị Minh Gi trình bày và yêu cầu khởi kiện như sau:
Bà Gi có tham gia bốn dây hụi do vợ chồng bà Hồ Thị Tuyết X và chị V làm chủ hụi:
Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 23/6/2018 (âm lịch), có 20 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà Giang tham gia 2 phần, tính đến ngày 21/01/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà Giang đóng đến lần thứ 19 hốt 1 phần bà X giao đủ tiền. Còn 1 phần bà chưa hốt, bà X, chị V còn nợ 17.500.000đ. Bị đơn thống nhất.
Dây hụi thứ hai: Áp ngày 19/02/2019 (âm lịch), có 24 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà Gi tham gia 1 phần, tính đến ngày 04/02/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà Gi đóng được 23 lần. Bà chưa hốt, bà X còn nợ 22.500.000đ. Hốt hụi được 33.000.000đ, bà Gi cho tiền cò bị đơn 500.000 đồng, còn lại 22.500.000 đồng.
Dây hụi thứ ba: Áp ngày 07/8/2018 (âm lịch), có 25 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà Gi tham gia 1 phần, tính đến ngày 07/8/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà Gi đóng được 18 lần số tiền 18.000.000đ.
Dây hụi thứ tư: Áp ngày 14/12/2018 (âm lịch), có 26 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà Gi tham gia 1 phần, tính đến ngày 14/01/2021 (âm lịch) hụi mãn, bà Giang đóng được 14 lần số tiền 14.000.000đ.
Tổng cộng số tiền bà X, chị V nợ bà là 72.000.000đ.
Ngày 30/3/2020 bà X có trả cho bà số tiền 10.000.000đ, đến nay không trả nữa bà Giang nhiều lần đòi tiền nhưng vợ chồng bà X hứa mà không trả.
Nay bà yêu cầu bà X, chị V trả cho bà số tiền 55.600.000 đồng theo cam kết ngày 13/3/2020 của bà X, chị V, không yêu cầu tính lãi.
Theo đơn khởi kiện đề ngày 10/11/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Lê Minh T trình bày và yêu cầu khởi kiện như sau:
Bà T có tham gia sáu dây hụi do bà Hồ Thị Tuyết X, chị V làm chủ hụi:
Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 23/6/2018 (âm lịch), có 20 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà T tham gia 2 phần, tính đến ngày 21/01/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng đến lần thứ 19 hốt 1 phần, bà X giao đủ tiền. Còn 1 phần bà chưa hốt, vợ chồng bà X còn nợ 17.500.000đ. Đến ngày 21/01/2020 bà X tuyên bố vỡ hụi.
Dây hụi thứ hai: Áp ngày 10/4/2018 (âm lịch), có 28 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà T tham gia 2 phần, tính đến ngày 10/6/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng được 22 lần. Bà chưa hốt, bà X còn nợ 44.000.000đ.
Dây hụi thứ ba: Áp ngày 14/12/2018 (âm lịch), có 26 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà T tham gia 1 phần, tính đến ngày 14/01/2021 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng được 14 lần, bà Xương còn nợ số tiền 14.000.000đ.
Dây hụi thứ tư: Áp ngày 16/10/2018 (âm lịch), có 21 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà T tham gia 2 phần, tính đến ngày 16/7/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng được 16 lần, bà X còn nợ số tiền 32.000.000đ.
Dây hụi thứ năm: Áp ngày 20/10/2019 (âm lịch), có 16 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà T tham gia 1 phần, tính đến ngày 20/01/2021 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng được 4 lần, bà X còn nợ số tiền 8.000.000đ.
Dây hụi thứ sáu: Áp ngày 09/12/2019 (âm lịch), hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà T tham gia 1 phần (bà chưa biết dây hụi có bao nhiêu phần do bà X chưa đưa giấy hụi), bà T đóng được 2 lần, bà X còn nợ số tiền 2.000.000đ.
Tổng cộng số tiền bà X, chị V nợ là 117.500.000đ.
Trong quá trình chơi hội ba T trung bình đóng tiền hụi cho bị đơn 750.000 đ/phần hụi đối với dây hụi giá 1.000.000đ; đóng 1.500.000đ/phần hụi đối với dây hụi giá 2.000.000đ.
Ngày 30/3/2020 bà X có trả cho bà số tiền 13.500.000đ, đến nay không trả nữa bà T nhiều lần đòi tiền nhưng bà X hứa mà không trả.
Nay bà Lê Minh T yêu cầu phía bị đơn trả cho bà T số tiền như đã cam kết ngày 13/3/2020 số tiền 79.400.000 đồng + 17.500.000 đồng trừ đi 13.500.000 đồng bà V đã trả, còn lại bà X và chị V phải trả 83.600.000 đồng, không yêu cầu tính tiền lãi.
Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/11/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Bùi Thị Th trình bày và yêu cầu khởi kiện như sau:
Bà Th có tham gia hai dây hụi do bà Hồ Thị Tuyết X, chị V làm chủ hụi:
Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 18/12/2017 (âm lịch), có 34 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà Th tham gia 1 phần, tính đến ngày 18/8/2020 (âm lịch) hụi mãn bà Th đóng đến ngày 18/02/2020 được 26 lần với số tiền là 52.000.000đ.
Dây hụi thứ hai: Áp ngày 20/10/2019 (âm lịch), có 15 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà Th tham gia 1 phần, tính đến ngày 20/11/2021 (âm lịch) hụi mãn bà Th đóng đến ngày 20/01/2020 được 4 lần với số tiền là 8.000.000đ. Đến lúc này bà X tuyên bố vỡ hụi.
Ngày 30/3/2020 bà X có trả cho bà số tiền 6.000.000đ, đến nay không trả nữa bà Th nhiều lần đòi tiền nhưng vợ chồng bà X hứa mà không trả.
Nay bà Bùi Thị Th yêu cầu bà Hồ Thị Tuyết X, chị V trả cho bà Th theo cam kết ngày 13/3/2020 là 45.000.000 đồng trừ đi 6.000.000 đồng chị V đã trả còn lại số tiền 39.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.
Bị đơn bà Hồ Thị Tuyết X trình bày: Việc góp hụi là do con dâu tôi tên Trần Thị Thu V làm chủ hụi nhưng lấy tên bà để gom hụi dây hụi đầu năm 2015 vì V nói photo giấy hụi cho hụi viên rồi, lấy tên bà để người lớn đứng tên, bà có la rầy V nói không gom nữa, còn dây hụi sau thì bà không biết. Đến khi V tuyên bố vỡ hụi bà mới biết thiếu nợ hụi các hụi viên này.
Bà thống nhất với ý kiến V trình bày đối với số tiền còn nợ hụi của các đồng nguyên đơn. V gom hụi thì V trả tôi đồng ý tạo điều kiện cho V 10 công đất bán trả nợ cho các nguyên đơn, bà không có liên quan gì đến các hụi viên V nợ.
Bị đơn chị Trần Thị Thu V trình bày: Bị đơn bà V thừa nhận toàn bộ lời trình bày của đồng nguyên đơn là đúng, bà có làm chủ hụi cho các đồng nguyên đơn. Bà V xin các nguyên đơn cho bà được trả 800.000đ/phần hụi đối với dạy hụi đầu giá 1.000.000đ; xin trả 1.500.000đ/phần hụi đối với dây hụi đầu giá 2.000.000 đồng, nên số tiền nợ hụi mà bà còn thiếu được tính như sau:
- Đối với bà Lư Thị X:
Dây hụi áp ngày 18/12/2017 âm lịch, giá 2.000.000 đồng, có 34 chưng, hụi mỗi tháng xổ 01 lần vào ngày 18, bà X tham gia 02 chưng (dây hụi mãn vào ngày 18/8/2020 âm lịch). Đến ngày 18/02/2020 âm lịch chị V tuyên bố bể hụi thì bà X đóng tiền hụi cho bà V, bà X được 26 lần, thành tiền 104.000.000 đồng.
Ngày 13/3/2020 Tổ hòa giải ấp Vĩnh Th mở phiên hòa giải, tại buổi hòa giải bà X, chị V thừa nhận nợ và cam kết trả mỗi tháng 6.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Đến ngày 13/4/2020, chị V trả được 6.000.000 đồng, số tiền còn nợ là 98.000.000 đồng.
Bà X yêu cầu bà X, chị V trả tiền hụi còn thiếu là 26 lần x 2.000.000 đồng x 2 phần = 104.000.000 đồng – 6.000.000 đồng = 98.000.000 đồng.
Tuy nhiên, tại phiên hòa giải bà X đồng ý để chị V trả mỗi chân hụi là 1.500.000đ x 26 lần x 02 = 78.000.000đ. Chị V trả cho bà X được 6.000.000 đồng. Hiện bị đơn còn nợ bà X số tiền 72.000.000 đồng (bảy mươi hai triệu đồng).
- Đối với bà Huỳnh Thị Ch:
+ Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 18/12/2017 âm lịch, giá 2.000.000 đồng, có 34 chưng, hụi mỗi tháng xổ 01 lần vào ngày 18, bà Ch tham gia 01 chưng (dây hụi mãn vào ngày 18/8/2020 âm lịch). Tính đến ngày 18/02/2020 âm lịch bà V tuyên bố bể hụi thì bà Ch đóng tiền hụi cho bà X, chị V được 26 lần, thành tiền 52.000.000 đồng.
+ Dây hụi thứ hai: Áp ngày 15/10/2018 âm lịch, giá 1.000.000 đồng, có 20 chưng, bà Ch tham gia 04 chưng (dây hụi mãn vào ngày 15/7/2020 âm lịch). Trong đó có 01 chưng hụi chết đóng được 16 lần, bà Ch còn nợ bà X, chị V 04 lần hụi sống là 4.000.000 đồng, còn lại 03 chưng hụi sống bà Ch đóng đến ngày 15/02/2020 âm lịch được 16 lần, thành tiền là 48.000.000 đồng. Sau khi trừ hụi chết 4.000.000 đồng thì bà X, bà V còn nợ bà Ch, số tiền 44.000.000 đồng.
Ngày 24/8/2018 âm lịch bà Ch mua lại 01 chưng hụi của bà Trần Thị Hoài Th trong dây hụi áp ngày 18/12/2017 âm lịch, hụi giá 2.000.000 đồng do bà X, chị V làm chủ hụi, số tiền 45.000.000 đồng, sau khi mãn hụi bà X, chị V trả lại cho bà Ch số tiền 68.200.000 đồng.
Trong quá trình chơi hụi bà Ch còn nợ hụi chết bà X, chị V trong dây hụi áp ngày 07/8/2018 âm lịch, hụi giá 1.000.000 đồng, nợ 07 lần hụi chết số tiền 7.000.000 đồng và trong dây hụi áp ngày 14/12/2018 âm lịch, hụi giá 1.000.000 đồng, nợ 02 lần hụi chết, số tiền 2.000.000 đồng. Tổng cộng bà Ch nợ tiền hụi chết của bà X, chị V là 9.000.000 đồng.
Như vậy, tính đến ngày 15/02/2020 âm lịch bà X, chị V còn nợ bà Ch số tiền 164.200.000 đồng – 9.000.000 đồng = 155.200.000 đồng.
Bà Ch có nhờ chính quyền địa phương giải quyết, đến ngày 13/3/2020 Tổ hòa giải ấp Vĩnh Th mở phiên hòa giải, tại buổi hòa giải bà X, chị V thừa nhận nợ và cam kết trả mỗi tháng 7.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Đến ngày 13/4/2020, chị V trả được 7.000.000 đồng.
Bà Ch yêu cầu bà X, chị V trả tiền hụi còn thiếu là 148.200.000 đồng (một trăm bốn mươi tám triệu, hai trăm nghìn đồng), không yêu cầu tính lãi Bà Ch đồng ý chốt nợ với bà V là 135.200.000đ – 7.000.000đ = 128.200.000 đồng. Hiện bị đơn còn nợ 128.200.000 đồng (một trăm hai mươi tám triệu, hai trăm nghìn đồng).
- Đối với bà Phạm Thị L:
Dây hụi áp ngày 07/8/2018 (âm lịch), có 25 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà L tham gia 2 phần, tính đến ngày 07/8/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà L đóng đến ngày 07/01/2020 được 18 lần x 8.00.000đ/tháng x 2 = 28.800.000đ.
Ngày 30/3/2020 bà V có trả cho bà số tiền 3.500.000đ.
28.800.000đ – 3.500.000đ = 25.300.000 đồng. Hiện bị đơn còn nợ lại là 25.300.000 đồng (Hai mươi lăm triệu, ba trăm nghìn đồng).
- Đối với bà Vũ Thị H trình bày:
Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 18/12/2017 (âm lịch), có 34 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà H tham gia 1 phần, tính đến ngày 18/8/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà H đóng đến ngày 18/02/2020 được 26 lần x 1.500.000đ/phần = 39.000.000đ.
Dây hụi thứ hai: Áp ngày 20/10/2019 (âm lịch), có 15 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà H tham gia 1 phần, tính đến ngày 20/11/2021 (âm lịch) hụi mãn, bà H đóng đến ngày 20/01/2020 được 4 lần x 1.500.000đ/chân = 6.000.000đ.
Tổng cộng số tiền bà X, chị V nợ là 45.000.000đ.
Ngày 30/3/2020 chị V có trả cho bà số tiền 6.000.000đ, đến nay không trả nữa bà H nhiều lần đòi tiền nhưng bà X, chị V hứa mà không trả.
45.000.000 đồng – 6.000.000đ = 39.000.000đ.
Hiện bị đơn còn nợ bà H là 39.000.000 đồng (Ba mươi chín triệu đồng).
- Đối với bà Lê Thị Minh Gi trình bày:
Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 23/6/2018 (âm lịch), có 20 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà Gi tham gia 2 phần, tính đến ngày 21/01/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà Giang đóng đến lần thứ 19 hốt 1 phần vợ chồng bà X giao đủ tiền. Còn 1 phần bà chưa hốt, bà X, chị V còn nợ 17.500.000đ. Bị đơn thống nhất.
Dây hụi thứ hai: Áp ngày 19/02/2019 (âm lịch), có 24 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà Gi tham gia 1 phần, tính đến ngày 04/02/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà Gi đóng được 23 lần. Bà chưa hốt, bà X, chị V còn nợ 22.500.000đ. Hốt hụi được 33.000.000đ, bà Gi cho tiền cò bị đơn 500.000 đồng, còn lại 22.500.000 đồng, bị đơn thống nhất.
Dây hụi thứ ba: Áp ngày 07/8/2018 (âm lịch), có 25 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà Gi tham gia 1 phần, tính đến ngày 07/8/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà Gi đóng được 18 lần x 800.000đ/phần hụi = 14.400.000đ.
Dây hụi thứ tư: Áp ngày 14/12/2018 (âm lịch), có 26 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà Gi tham gia 1 phần, tính đến ngày 14/01/2021 (âm lịch) hụi mãn, bà Gi đóng được 14 lần x 800.000đ/phần hụi = 11.200.000đ.
Tổng cộng: 65.600.000 đồng (sáu mươi lăm triệu sáu trăm nghìn đồng).
Ngày 30/3/2020 bà X, chị V có trả cho bà Gi số tiền 10.000.000đ.
Hiện bị đơn còn nợ bà Gi: 65.600.000 đồng - 10.000.000đ = 55.600.000đồng (năm mươi lăm triệu, sáu trăm nghìn đồng).
- Đối với bà Lê Minh T:
Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 23/6/2018 (âm lịch), có 20 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà T tham gia 2 phần, tính đến ngày 21/01/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng đến lần thứ 19 hốt 1 phần bà X giao đủ tiền. Còn 1 phần bà chưa hốt, bà X, chị V còn nợ 17.500.000đ (hốt được 18.000.000 đồng, cho tiền còn bị đơn 500.000 đồng, còn lại 17.500.000đồng). Bị đơn thống nhất.
Dây hụi thứ hai: Áp ngày 10/4/2018 (âm lịch), có 28 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà T tham gia 2 phần, tính đến ngày 10/6/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng được 22 lần x 800.000đ/phần hụi x 2 phần = 35.200.000 đồng.
Dây hụi thứ ba: Áp ngày 14/12/2018 (âm lịch), có 26 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà T tham gia 1 phần, tính đến ngày 14/01/2021 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng được 14 lần x 800.000đ/phần hụi = 11.200.000 đồng.
Dây hụi thứ tư: Áp ngày 16/10/2018 (âm lịch), có 21 phần, hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà T tham gia 2 phần, tính đến ngày 16/7/2020 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng được 16 lần x 800.000đ/phần hụi = 25.600.000 đồng.
Dây hụi thứ năm: Áp ngày 20/10/2019 (âm lịch), có 16 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà T tham gia 1 phần, tính đến ngày 20/01/2021 (âm lịch) hụi mãn, bà T đóng được 4 lần x 1.500.000đ/phần hụi = 6.000.000 đồng.
Dây hụi thứ sáu: Áp ngày 09/12/2019 (âm lịch), hụi giá 1.000.000đ/tháng, bà Tuyết tham gia 1 phần (bà chưa biết dây hụi có bao nhiêu phần do bà X chưa đưa giấy hụi), bà T đóng được 2 lần x 800.000đ/phần hụi = 1.600.000 đồng.
Tổng cộng: 97.100.000 đồng (chín mươi bảy triệu, một trăm nghìn đồng).
Ngày 30/3/2020 bà X, chị V có trả cho bà T số tiền 13.500.000đ.
97.100.000 đồng – 13.500.000 đồng = 83.600.000 đồng. Hiện bị đơn còn nợ bà T là 83.600.000 đồng (tám mươi ba triệu, sáu trăm nghìn đồng).
- Đối với bà Bùi Thị Th:
Dây hụi thứ nhất: Áp ngày 18/12/2017 (âm lịch), có 34 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà Th tham gia 1 phần, tính đến ngày 18/8/2020 (âm lịch) hụi mãn bà Th đóng đến ngày 18/02/2020 được 26 lần x 1.500.000đ/phần hụi = 39.000.000đ.
Dây hụi thứ hai: Áp ngày 20/10/2019 (âm lịch), có 15 phần, hụi giá 2.000.000đ/tháng, bà Th tham gia 1 phần, tính đến ngày 20/11/2021 (âm lịch) hụi mãn bà Th đóng đến ngày 20/01/2020 được 4 lần x 1.500.000đ = 6.000.000 đồng.
Tổng cộng: 39.000.000đ + 6.000.000đ = 45.000.000 đồng.
Ngày 30/3/2020 bà X, chị V có trả cho bà Th số tiền 6.000.000đ.
45.000.000đ – 6.000.000đ = 39.000.000 đồng (ba mươi chín triệu đồng).
*Tại bản án dân sự sơ thẩm số 14/2022/DS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang quyết định:
Căn cứ vào các Điều 351, 471 và Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 26, 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Lư Thị Xuân; bà Huỳnh Thị Ch; bà Phạm Thị L; bà Vũ Thị H; bà Lê Thị Minh Gi; bà Lê Minh T; bà Bùi Thị Th đối với bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V về việc tranh chấp hợp đồng dân sự về góp hụi.
2. Đình chỉ yêu cầu của các nguyên đơn bà Lư Thị X; bà Huỳnh Thị Ch; bà Phạm Thị L; bà Vũ Thị H; bà Lê Thị Minh Gi; bà Lê Minh T; bà Bùi Thị Th đối với ông Nguyễn Văn H (chồng bà X) yêu cầu cùng bà X trả nợ hụi.
3. Buộc bà Hồ Thị Tuyết X (S) và chị Trần Thị Thu V có nghĩa vụ liên đới trả cho các nguyên đơn cụ thể như sau:
- Trả cho bà Lư Thị X số tiền 72.000.000 đồng (Bảy mươi hai triệu đồng).
- Trả cho bà Huỳnh Thị Ch số tiền 128.200.000 đồng ( Một trăm hai mươi tám triệu hai trăm nghìn đồng).
- Trả cho bà Phạm Thị L số tiền 25.300.000 đồng (Hai mươi lăm triệu ba trăm nghìn đồng).
- Trả cho bà Vũ Thị H số tiền 39.000.000 đồng (Ba mươi chín triệu đồng).
- Trả cho bà Lê Thị Minh Gi số tiền 55.600.000 đồng (Năm mươi lăm triệu sáu trăm nghìn đồng).
- Trả cho bà Lê Minh T số tiền 83.600.000 đồng (Tám mươi ba triệu sáu trăm nghìn đồng ).
- Trả cho bà Bùi Thị Th số tiền 39.000.000 đồng (Ba mươi chín triệu đồng).
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 10/5/2022 bị đơn bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V có đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét không buộc bà Hồ Thị Tuyết Xương có nghĩa vụ liên đới cùng với chị Trần Thị Thu V trả nợ cho các đồng nguyên đơn số tiền nợ hụi theo bản án sơ thẩm đã tuyên. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của chị Trần Thị Thu V về việc xin trả dần số tiền nợ cho các nguyên đơn theo Bản án đã tuyên cho đến khi hết số tiền nợ.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các nguyên đơn đồng ý với bản án sơ thẩm đã xét xử và không có kháng cáo. Bị đơn bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V giữ nguyên nội dung kháng cáo và đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn Hồ Thị Tuyết X trình bày quan điểm:
Luật sư Lê Hoàng Nh trình bày: Tôi đồng ý với bản án sơ thẩm tuyên buộc số tiền phải thanh toán cho các nguyên đơn là phù hợp. Tuy nhiên tôi không đồng ý một phần bản án sơ thẩm đã tuyên buộc bà Hồ Thị Tuyết X (S) liên đới cùng chị Trần Thị Thu V trả tiền cho các nguyên đơn. Bản án sơ thẩm buộc bà X có nghĩa vụ trả tiền cho các nguyên đơn là không có căn cứ. Bởi lẽ, theo lời khai của bị đơn thì chị V là người làm chủ hụi, chị V trực tiếp đi gom hụi, chị V thừa nhận và đồng ý tự mình trả nợ cho các nguyên đơn. Lời khai của các nguyên đơn tại tòa thì xác định bà X làm chủ hụi nhưng trong quá trình giải quyết vụ án có khi thì xác định chị V làm chủ hụi, lời khai của các nguyên đơn có mâu thuẫn với nhau. Như vậy, căn cứ để xác lập quyền dân sự bà X không tham gia bàn bạc, trao đổi với các hụi viên về giá dây hụi, số lượng hụi viên; mục đích của giao dịch dân sự bà X không hưởng lợi ích trong giao dịch dân sự này, tiền thảo là do chị V hưởng; vì vậy không có căn cứ phát sinh nghĩa vụ đối với bà X. Khi bà X ký cam kết trả nợ thì bà chỉ ký với tư cách người làm chứng, do các hụi viên bắt ép bà ký. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không buộc bà X có trách nhiệm liên đới trả tiền cho các bị hại.
Luật sư Nguyễn Bằng L trình bày: Căn cứ hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa xác định giấy bán hụi (Bút lục 18) là do chị V, khi ký cam kết trả nợ bà X chỉ ký với tư cách người chứng kiến. Các giấy cam kết do bà X ký có trong hồ sơ vụ án được lập vào thời điểm sau khi xảy ra việc vỡ hụi và mục đích của bà X ký các loại giấy tờ này là nhằm hỗ trợ giúp đỡ cho chị V trả nợ và tại phiên tòa sơ thẩm bà X xác định đồng ý cho chị V 10 công đất để bán lấy tiền trả nợ hụi. Căn cứ Điều 351 Bộ luật dân sự thì bà X không vi phạm trách nhiệm dân sự về việc tổ chức cho mọi người góp hụi nên bà X không phải chịu trách nhiệm liên đới. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bà Hồ Thị Tuyết và sửa một phần của Bản án sơ thẩm theo hướng buộc trách nhiệm chị V phải thanh toán nợ cho các nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang nêu quan điểm:
- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của các bên đương sự, từ khi thụ lý vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện và chấp hành đúng theo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về hướng giải quyết vụ án:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 14/2022/DS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra và công bố công khai tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ của nguyên đơn, bị đơn và người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
Xét đơn kháng cáo của bị đơn bà Hồ Thị Tuyết X và Trần Thị Thu V về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định tại Điều 271, 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.
Nguyên đơn bà Lư Thị X vắng mặt nhưng đã có giấy ủy quyền cho ông Châu Văn Ấ theo văn bản ủy quyền ngày 27/6/2022. Căn cứ khoản 3 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa xét xử phúc thẩm.
[2] Về nội dung kháng cáo của bản án sơ thẩm: Xét đơn kháng cáo của bị đơn bà Hồ Thị Tuyết X và Trần Thị Thu V, Hội đồng xét xử xét thấy đối với số tiền mà bị đơn nợ hụi của các nguyên đơn thì hai bên đã thống nhất được với nhau, không có tranh chấp, cụ thể bị đơn nợ hụi của bà Lư Thị X 72.000.000 đồng; bà Huỳnh Thị Ch 128.200.000 đồng, bà Phạm Thị L 25.300.000 đồng; bà Vũ Thị H 39.000.000 đồng, bà Lê Thị Minh Gi 55.600.000 đồng, bà Lê Minh T 83.600.000 đồng, bà Bùi Thị Th 39.000.000 đồng. Đối với vấn đề này các bên đã thống nhất với nhau nên đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V đều kháng cáo yêu cầu không buộc bà Hồ Thị Tuyết X có nghĩa vụ liên đới cùng với chị Trần Thị Thu V trả nợ cho các đồng nguyên đơn số tiền nợ hụi theo bản án sơ thẩm đã tuyên. Xét thấy rằng: Tại biên bản hòa giải ngày 25/01/2021 bà X thừa nhận chữ ký của bà trong bản cam kết ngày 13/3/2020, giấy bán hụi ngày 18/8/2018, giấy cam kết ngày 06/02/2020 âm lịch, Biên bản xác minh ngày 11/3/2020, Biên bản hòa giải ngày 13/3/2020 của ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh H, huyện U Minh Th tỉnh Kiên Giang. Trong tất cả các văn bản này đều thể hiện rõ bà X là chủ hụi, bà có ý kiến xin cam kết trả nợ. Theo nội dung biên bản xác minh ngày 11/3/2020 của công an ấp Vĩnh Th, xã Vĩnh H, khi con dâu bà X lấy tên bà X làm chủ hụi thì bà X biết nhưng vì là con trong nhà nên bà không có ý kiến gì. Mặt khác, tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm các nguyên đơn đều khẳng định việc chơi hụi là bà Hồ Thị Tuyết X làm chủ hụi, bà Xương cùng con dâu là chị Trần Thị Thu V là người đi gom hụi. Tại phiên tòa sơ thẩm bà X cho rằng bà biết chị V là con dâu bà lấy tên bà làm chủ hụi từ năm 2015 nhưng bà không có phẩn ứng gì. Mặt khác bà có ký cam kết trả nợ cho các đồng nguyên đơn, bà cho rằng bà ký với tư cách người làm chứng nhưng thực tế theo giấy cam kết là cam kết trả nợ cho các nguyên đơn. Do đó, bản án sơ thẩm xác định bà X chủ hụi và buộc bà Hồ Thị Tuyết X phải có trách nhiệm liên đới cùng với Trần Thị Thu V trả nợ hụi cho các nguyên đơn là có cơ sở đúng theo quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
Đối với nội dung kháng cáo của chị Trần Thị Thu V về việc xin trả dần số tiền nợ cho các nguyên đơn theo bản án sơ thẩm đã tuyên cho đến khi hết số tiền nợ, tại phiên tòa phúc thẩm các nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến không đồng ý cho trả dần và yêu cầu này cũng không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên không có cơ sở để xem xét.
Đối với việc các nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện đối với ông Nguyễn Văn H là chồng bà Hồ Thị Tuyết X, không yêu cầu ông H cùng bà Xương trả nợ hụi, tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ yêu cầu này là phù hợp quy định của pháp luật.
[3] Xét về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V phải liên đới chịu nộp án phí có giá ngạch trên tổng số tiền trả cho các nguyên đơn cụ thể: 442.700.000đồng = (400.000.000 = 20.000.000 đồng + (42.700.000 đồng x 4%) = 21.708.000 đồng (Hai mươi một triệu bảy trăm không tám nghìn đồng). Các nguyên đơn không phải nộp án phí. Trả lại án phí đã tạm ứng cho các nguyên đơn.
Từ những nhận định nêu trên nên trong thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử thống nhất không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V, chấp nhận đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang và giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 14/2022/DS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
[4] Án phí dân sự phúc thẩm: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bà Hồ Thị Tuyết X và Trần Thị Thu V mỗi người phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm số 14/2022/DS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang không bị kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không giải quyết, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào các Điều 351, 471 và Điều 288 Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 26, 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo của bị đơn bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V.
- Giữ nguyên toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 14/2022/DS-ST ngày 27 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn bà Lư Thị Xuân; bà Huỳnh Thị Ch; bà Phạm Thị L; bà Vũ Thị H; bà Lê Thị Minh Gi; bà Lê Minh T; bà Bùi Thị Th đối với bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V về việc tranh chấp hợp đồng dân sự về góp hụi.
2. Đình chỉ yêu cầu của các nguyên đơn bà Lư Thị X; bà Huỳnh Thị Ch; bà Phạm Thị L; bà Vũ Thị H; bà Lê Thị Minh Gi; bà Lê Minh T; bà Bùi Thị Th đối với ông Nguyễn Văn H (chồng bà X) yêu cầu cùng bà X trả nợ hụi.
3. Buộc bà Hồ Thị Tuyết X (S) và chị Trần Thị Thu V có nghĩa vụ liên đới trả cho các nguyên đơn cụ thể như sau:
- Trả cho bà Lư Thị X số tiền 72.000.000 đồng (Bảy mươi hai triệu đồng).
- Trả cho bà Huỳnh Thị Ch số tiền 128.200.000 đồng (Một trăm hai mươi tám triệu hai trăm nghìn đồng).
- Trả cho bà Phạm Thị L số tiền 25.300.000 đồng (Hai mươi lăm triệu ba trăm nghìn đồng).
- Trả cho bà Vũ Thị H số tiền 39.000.000 đồng (Ba mươi chín triệu đồng).
- Trả cho bà Lê Thị Minh Gi số tiền 55.600.000 đồng (Năm mươi lăm triệu sáu trăm nghìn đồng).
- Trả cho bà Lê Minh T số tiền 83.600.000 đồng (Tám mươi ba triệu sáu trăm nghìn đồng).
- Trả cho bà Bùi Thị Th số tiền 39.000.000 đồng (Ba mươi chín triệu đồng).
Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật các nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án mà bị đơn bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V không trả hoặc trả không dứt tiền nợ cho các nguyên đơn còn phải trả lãi, theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
4. Về án phí dân sự:
4.1. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc bà Hồ Thị Tuyết Xương và chị Trần Thị Thu Vân phải liên đới nộp án phí số tiền án phí là 21.708.000đ (Hai mươi một triệu bảy trăm không tám nghìn đồng).
- Trả lại cho bà Lư Thị X tiền tạm ứng án phí 2.450.000đ (Hai triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000560 ngày 04/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
- Trả lại cho bà Lê Minh T tiền tạm ứng án phí 2.600.000đ (Hai triệu sáu trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000562 ngày 07/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
- Trả lại cho bà Vũ Thị H tiền tạm ứng án phí 1.350.000đ (Một triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000561 ngày 07/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
- Trả lại cho bà Phạm Thị L tiền tạm ứng án phí 812.000đ (Tám trăm mười hai nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000564 ngày 08/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
- Trả lại cho bà Lê Thị Minh Gi tiền tạm ứng án phí 1.550.000đ (Một triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000563 ngày 07/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
- Trả lại cho bà Bùi Thị Th tiền tạm ứng án phí 1.350.000đ (Một triệu ba trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000565 ngày 09/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Gaing.
- Trả lãi cho bà Huỳnh Thị Ch tiền tạm ứng án phí 3.705.000đ (Ba triệu bảy trăm không năm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0000558 ngày 04/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
- Bà Hồ Thị Tuyết X và chị Trần Thị Thu V mỗi người phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), theo biên lai số 0003251 và 0003252 cùng ngày 11/5/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung 2014.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tranh chấp hợp đồng góp hụi số 145/2022/DS-PT
Số hiệu: | 145/2022/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 10/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về