Bản án về tranh chấp hợp đồng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng ủy quyền số 168/2023/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 168/2023/DS-PT NGÀY 18/04/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN

Trong ngày 18 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 26/2023/TLPT-DS ngày 02/02/2023 về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng ủy quyền”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 239/2022/DSST ngày 14/11/2022 của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 214/2023/QĐ-PT ngày 28/3/2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trần Hiền N. sinh năm: 1958.

Tăng Thị P. sinh năm: 1954.

Địa chỉ: Nguyễn Việt D, phường An T, quận B, thành phố Cần Thơ; cùng ủy quyền tham gia tố tụng cho chị Tăng Tố L (văn bản ủy quyền ngày 13/02/2020).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Phạm Xuân T, Văn phòng Luật sư T thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Long An.

2. Bị đơn: Ông Bùi Hữu D. sinh năm: 1982. Địa chỉ: H5 khu vực 2, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

Người đại diện theo ủy quyền: anh Dương Đoàn Nh. sinh năm: 1994. Địa chỉ: Trần P, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ (văn bản ủy quyền ngày 31/3/2023).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Luật sư Lê Công H, Công ty TNHH hai thành viên L thuộc Đoàn Luật sư thành phố Cần Thơ.

Ông Hoàng Văn Ph. sinh năm: 1969. Địa chỉ: đường 30/4, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ. Địa chỉ liên lạc: Nguyễn Văn C, phương A, quận N, thành phố Cần Thơ.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Tăng Tố L. sinh năm: 1984. Địa chỉ: 91/57 Cách Mạng Tháng Tám, phường An Thới, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ.

- Ông Trần Hiền T. sinh năm: 1964.

- Bà Trần Thị Th. sinh năm: 1951.

Địa chỉ: khu vực Thới B, phường T, quận B, thành phố Cần Thơ.

- Anh Trương Văn M. sinh năm: 1987. Địa chỉ: 370/9A Cách Mạng Tháng Tám, phường An Thới, quận Bình Thủy, thành phố Cần Thơ.

- Văn phòng Công chứng T. Địa chỉ: Cách Mạng Tháng T, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ.

- Văn phòng Công chứng H. Địa chỉ: B Nguyễn Văn C, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

4. Người kháng cáo: Bị đơn ông Bùi Hữu D, ông Hoàng Văn Ph.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn ông Trần Hiền N, bà Tăng Thị P trình bày:

Do tin tưởng ông Bùi Hữu D, nên ngày 05/4/2019 ông bà có vay của ông D số tiền 1,5 tỷ (lãi suất 60.000.000đ/tháng, đã đóng lãi tháng 4,5,6/2019). Để đảm bảo khoản vay, ông D buộc ông bà đến Văn phòng công chứng T ký hợp đồng ủy quyền và giao giấy chứng nhận QSDĐ số 00238 ngày 02/11/2004 (chỉnh lý biến động ngày 10/12/2015) diện tích 945m2 do ông N đứng tên cho ông D giữ. Đến giữa tháng 7/2019, ông bà yêu cầu hủy hợp đồng ủy quyền, trả lại tiền vay và ông D trả lại giấy chứng nhận QSDĐ, thì phát hiện ông D đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Hoàng Văn Ph ngày 04/7/2019, mặc dù ông bà đã đóng lãi đầy đủ.

Do đó, ông bà khởi kiện yêu cầu: Hủy Hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ ngày 04/7/2019 giữa ông D với ông Ph (công chứng tại Văn phòng Công chứng H); Hủy Hợp đồng ủy quyền số 1281, quyển số 01/2019/TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng công chứng T ký ngày 05/4/2019; Buộc ông Ph và ông D phải trả lại giấy chứng nhận QSDĐ cho ông bà.

* Bị đơn ông Bùi Hữu D trình bày:

Vào ngày 05/4/2019, bà Tăng Tố L vay của ông số tiền 1,5 tỷ, lãi suất 4%/tháng. Để đảm bảo khoản vay, bà L mượn tài sản của cha mẹ chồng là ông N, bà P quyền sử dụng đất nói trên để đảm bảo cho ông. Ông N, bà P ký hợp đồng ủy quyền cho ông tại Văn phòng công chứng Trần Văn Thanh.

Đến tháng 6/2019, ông yêu cầu bà L trả nợ. Sau gần một tháng bà L thông tin lại là đã tìm được ông Hoàng Văn Ph (vợ ông Ph là khách hàng của bà L tại Ngân hàng Vietinbank An Thới) cầm lại miếng đất trên với số tiền 1,8 tỷ. Sau đó, ông và ông Ph ra Văn phòng Công chứng H ký hợp đồng chuyển nhượng có sự chứng kiến của bà L. Ông Ph giao tiền tại Ngân hàng Vietinbank 1.728.000.000đ sau khi đã trừ phần lãi 72 triệu. Ông lấy lại số tiền gốc là 1,5 tỷ và tiền lãi 20 ngày là 40 triệu, số tiền còn lại 188 triệu ông đưa trực tiếp cho bà L tại Ngân hàng Vietinbank Cần Thơ. Do đó ông không còn liên quan gì, yêu cầu Tòa xử theo pháp luật.

* Bị đơn ông Hoàng Văn Ph trình bày:

Ngày 04/7/2019 ông có nhận chuyển nhượng QSDĐ thông qua Hợp đồng ủy quyền số 1281, quyển số 01/2019/TP/CC-SCC/HĐGD do chủ sử dụng đất ủy quyền cho ông D; hợp đồng ủy quyền này vẫn còn hiệu lực, nên Văn phòng công chứng H công chứng hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông với ông D là hợp pháp. Ông đã được chỉnh lý sang tên vào ngày 27/9/2019, nên thửa đất trên thuộc quyền sử dụng của ông. Đồng thời ông có đơn phản tố yêu cầu trường hợp nếu hủy đồng chuyển nhượng QSDĐ của ông, thì ông D và nguyên đơn phải liên đới bồi thường cho ông theo giá thị trường hiện nay.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Chị Tăng Tố L, ông Trần Hiền T, bà Trần Thị Th: thống nhất trình bày của nguyên đơn.

+ Văn phòng Công chứng H trình bày: Ngày 04/7/2019, VPCC 24h nhận được yêu cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Bùi Hữu D với ông Hoàng Văn Ph (được ông Trần Hiền N và bà Tăng Thị p ủy quyền ngày 05/4/2019 theo Hợp đồng ủy quyền số 1281 có công chứng tại VPCC Trần Văn T). Sau khi kiểm tra tính hợp lệ, Công chứng viên giải thích quyền nghĩa vụ các bên, các bên đọc lại thống nhất với nội dung hợp đồng và ký tên. Vì vậy, việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ giữa ông D với ông Ph là tuân thủ đúng quy định pháp luật.

+ Văn phòng công chứng T trình bày: Ngày 05/4/2019 VPCC Trần Văn T nhận được hồ sơ khách hàng yêu cầu công chứng Hợp đồng ủy quyền đối với quyền sử dụng đất của ông Trần Hiền N, bà Tăng Thị P ủy quyền cho ông Bùi Hữu D chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp .... Sau khi kiểm tra đầy đủ và hợp lệ nên đã công chứng theo đúng quy định.

+ Anh Trương Văn M trình bày: Vào ngày 06/5/2019 ông N, bà P đưa tiền nhờ anh chuyển khoản 60 triệu trả lãi tháng 5/2019 do cầm cố đất cho ông D để vay số tiền 1,5 tỷ. Anh đã sao kê và cung cấp chứng từ cho Tòa án đầy đủ; anh xin xét xử vắng mặt.

Về việc hòa giải không thành nên Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều đưa ra xét xử; tại bản án sơ thẩm số: 239/2022/DS-ST ngày 14/11/2022 đã tuyên:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

+ Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền số 1281, quyển số 01/2019/TP/CC- SCC/HĐGD ngày 05/4/2019 tại VPCC T, được ký kết giữa ông Trần Hiền N, bà Tăng Thị P với ông Bùi Hữu D vô hiệu;

+ Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, số công chứng 4905, quyển số 06 ký ngày 04/7/2019 tại Văn phòng Công chứng H, giữa ông Bùi Hữu D với ông Hoàng Văn Ph vô hiệu;

+ Bà Tăng Tố L phải hoàn trả ông Bùi Hữu D 1.877.790.100đ (gốc và lãi).

Kiến nghị UBND quận Bình Thủy và Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Bình Thủy xóa chỉnh lý tên ông Hoàng Văn Ph trên giấy chứng nhận QSDĐ số 00238 ngày 02/11/2004 (chuyển qua tên ông Ph ngày 27/9/2019); xóa tên ông Ph và chỉnh lý cho ông Trần Hiền N đứng tên trên giấy chứng nhận;

2. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Hoàng Văn Ph.

Buộc ông Bùi Hữu D phải hoàn trả ông Hoàng Văn Ph số tiền 3.753. 890.500đ.

Ngoài ra bản án còn tuyên về việc chịu lãi chậm thi hành án, án phí, các chi phí tố tụng khác và quyền kháng cáo của đương sự.

Ngày 21/11/2022 bị đơn Bùi Hữu D kháng cáo; ngày 25/11/2022 Hoàng Văn Ph kháng cáo, yêu cầu phúc thẩm sửa hoặc hủy án sơ thẩm do đánh giá chứng cứ chưa đúng, không phù hợp với các tình tiết khách quan về án dân đơn phán quyết xâm phạm quyền lợi các ông Tại phiên tòa phúc thẩm, ông D xác định cho kháng cáo không đồng ý bồi thường thiệt hại vì đây là giao dịch vay tài sản, không kháng cáo về giá đất; ông Ph xác định vẫn giá nguyên yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng, nếu vô hiệu thì nguyên đơn và ông D liên đới bồi thường thiệt hại theo đánh giá ở cấp sơ thẩm; chị L xác định thực chất là chỉ vay tiền của ông D, sau đó chị vay của ông Ph để trả cho ông D nhưng làm hợp đồng chuyển nhượng cho là giả tạo, nay chị đồng ý trả tiền cho ông Ph và chấp nhận trả lãi theo quy định, tuy nhiên có yêu cầu ông D hỗ trợ phần tiền lãi tiếp cho chị. Ông D đồng ý chịu lãi 50% với chị L đến khi trả dứt nợ cho ông Ph.

Các Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn và bị đơn D phân tích đây là hợp đồng chuyển nhượng giả tạo thực chất là cho L vay tiền, từ đó đề nghị tuyên vô hiệu hợp đồng ủy quyền và hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ, buộc cho L trả lại số tiền vay 1,8 tỉ và lại 10%/năm cho ông Ph, công nhận sự thỏa thuận ông D sẽ hỗ trợ trả tiếp cho L 50% tiền lại cho ông Ph đến khi trả dứt nợ.

Kiểm sát viên phúc thẩm phát biểu ý kiến: về tố tụng Tòa án và các đương sự đã thực hiện đúng quy định; Về nội dung: theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và lời trình bày của các bên, có cơ sở kết luận giao dịch ủy quyền giữa nguyên đơn với ông D; giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông D với ông Ph đều vô hiệu do giả tạo nhằm che giấu giao dịch cho L vay tiền của những người này. Ngoài ra, trên đất còn có nhà và 06 ngôi mộ của bên thứ ba là có đối tượng không thể thực hiện được. Án sơ thẩm tuyên vô hiệu hóa các hợp đồng là có căn cứ, nhưng giải quyết hậu quả không đúng. Đề nghị bác kháng cáo của ông Ph, chấp nhận một phần kháng cáo của ông D, sửa án sơ thẩm theo hướng giao dịch vay tài sản, chị L trả 1,8 tỉ cho ông Ph và lãi suất theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015; ghi nhận sự thỏa thuận ông D cùng chịu trách nhiệm với chị L trả lãi 50% cho ông Ph đến khi dứt nợ.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

* Về thủ tục tố tụng:

[1] Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên bị đơn và hủy hợp đồng ủy quyền giữa nguyên đơn với bị đơn Bùi Hữu D, buộc hai bị đơn phải trả lại giấy đất cho nguyên đơn; Bị đơn Hoàng Văn Ph phản tố yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng hợp pháp, nếu phải hủy hợp đồng thì yêu cầu nguyên đơn và ông D liên đới bồi thường theo giá trả đất hiện nay. Cấp sơ thẩm xác định quan hệ “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hợp đồng ủy quyền” theo khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự là có căn cứ.

Ngoài chị L, những người liên quan khác có đơn xin vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành phiên tòa phúc thẩm.

* Về nội dung: Sau khi xét xử sơ thẩm, có hai bị đơn đều có kháng cáo. Xét kháng cáo thấy rằng:

[2] Đối với kháng cáo của bị đơn Bùi Hữu D: căn cứ vào các bản tự khai ngày 26/6/2020 (BL88), ngày 07/9/2022 (BL223), biên bản làm việc ngày 20/7/2020 (BL78, 79) ông D thừa nhận: vào ngày 05/4/2019 chị L cần tiền làm ăn nên “mượn” ông số tiền 1,5 tỷ, lãi suất 4%/tháng, chị L mượn tài sản (thửa đất 525, 526) của cha mẹ chồng là ông N, bà P ký ủy quyền cho ông để đảm bảo khoản vay, đã đóng lãi được tháng 4-5/2019. Tháng 6/2019 ông yêu cầu chị L trả nợ, sau đó chị L cho biết đã tìm được ông Hoàng Văn Ph “cầm” tài sản với số tiền 1,8 tỷ. Nên ngày 04/7/2019 ông và ông Ph ra Văn phòng Công chứng H ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ. Ông Ph giao 1.728.000.000đ (sau khi trừ tiền lãi 72 triệu), ông lấy 1,5 tỷ và tiền lãi 20 ngày là 40 triệu, số tiền còn lại 188 triệu ông giao chị L.

[2.1] Như vậy ông N, bà p ký hợp đồng ủy quyền cho ông D là để đảm bảo khoản vay cho con dâu của ông bà là chị L theo đề nghị của ông D. Đồng thời, xét Hợp đồng ủy quyền 1281 ngày 05/4/2019 giữa ông N, bà P với ông D không thể hiện nội dung sau khi người được ủy quyền thực hiện các nội dung ủy quyền thì phải có nghĩa vụ thông báo kết quả thực hiện ủy quyền hoặc bàn giao lợi ích, lợi nhuận phát sinh từ công việc đã thực hiện theo ủy quyền cho người ủy quyền tài sản. Vì vậy, lời thừa nhận của ông D mục đích, nội dung của việc ủy quyền này là để bảo đảm cho khoản vay của chị L là có căn cứ. Cấp sơ thẩm xác định hợp đồng ủy quyền trong trường hợp này vô hiệu do giả tạo là đúng, nhưng áp dụng Điều 127 Bộ luật dân sự năm 2015 cho rằng do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép là không chính xác.

[2.2] Từ hợp đồng ủy quyền vô hiệu do giả tạo, nên việc ông D thực hiện giao dịch chuyển nhượng tài sản cho ông Ph cũng vô hiệu theo, mà nội dung này chính ông D cũng đã thừa nhận là ông Ph “cầm” thửa đất 525, 526 với số tiền 1,8 tỷ, nhưng chỉ giao số tiền 1.728.000.000đ (trừ lãi ngay ngày giao tiền 72 triệu) chứ không phải mua bán, chuyển nhượng, cấp sơ thẩm quy kết cả hai bị đơn cùng có lỗi làm cho giao dịch chuyển nhượng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo phương thức ông D bồi thường thiệt hại 50% theo giá trị tài sản hiện nay cho ông Ph là không đúng, vì đây cũng là giao dịch giả tạo nhằm che giấu giao dịch vay tài sản.

[2.3] Đối với hợp đồng vay giữa ông D và chị L có thỏa thuận lãi nhưng không xác định mức lãi suất và không xác định thời hạn, nên được điều chỉnh theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015. Tại phiên tòa phúc thẩm ông D xác định đã nhận lãi của chị L 180 triệu, tuy nhiên chị L không yêu cầu khấu trừ lại, xét đây là sự tự nguyện của đương sự nên ghi nhận không điều chỉnh.

[3] Đối với kháng cáo của bị đơn Hoàng Văn Ph:

[3.1] Xét hợp đồng CNQSDĐ giữa hai bị đơn: như đã phân tích trên, chính ông D và chị L đã thừa nhận: chị L tự liên hệ tìm ông Ph đến ký giả hợp đồng chuyển nhượng, thực chất là chị vay tiền của ông Ph đế trả cho ông D. Như vậy mặc dù giao dịch chuyển nhượng ký kết được lập theo mẫu, có công chứng theo đúng quy định pháp luật; đối tượng giao dịch là QSDĐ có đủ điều kiện tham gia giao dịch, tức là hợp đồng tuân thủ quy định của pháp luật cả về nội dung và hình thức; người nhận chuyển nhượng cũng đã được xác lập, cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Nhưng ở đây yếu tố hai bên tham gia giao dịch tự nguyện và mục đích của giao dịch là lợi ích mà chủ thể mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch là không đảm bảo. Bởi lẽ, nguyên đơn hoàn toàn không biết mục đích giao dịch mua bán, chuyển nhượng này là đế cấn trừ khoản nợ của con dâu họ. Đồng thời, thực tế ông Ph người nhận chuyển nhượng đất hoàn toàn không nhận đất, tài sản trên đất, cũng không biết vị trí thửa đất nằm ở đâu và người thứ ba không tham gia giao dịch là gia đình ông Trần Hiền T đang sinh sống trên phần đất này. Đối tượng giao dịch giữa đôi bên là QSDĐ, nhưng trên đất lại có nhà của người thứ ba và 06 ngôi mộ cùng rất nhiều cây trồng trên đất không được ghi nhận vào hợp đồng chuyển nhượng; không thể hiện quyền lợi, nghĩa vụ ảnh hưởng đến người thứ ba thế nào. Như vậy hợp đồng CNQSDĐ trong trường hợp này có đối tượng không thể thực hiện được và cũng không thuộc trường hợp được bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 133, 408 Bộ luật dân sự năm 2015. Từ những phân tích trên, xét do giao dịch chuyển nhượng trong trường hợp này cũng nhằm mục đích che giấu cho giao dịch vay tài sản nên cấp sơ thẩm xác định giao dịch vô hiệu theo Điều 124 Bộ luật dân sự năm 2015 là có căn cứ. Bị đơn kháng cáo yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng là không có cơ sở.

[3.2] Về hậu quả của hợp đồng vô hiệu: cấp sơ thẩm xác định lỗi dẫn đến làm cho giao dịch chuyển nhượng đất vô hiệu là do hai bị đơn, nguyên đơn không có lỗi là đúng. Tuy nhiên như đã phân tích, giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo phương thức ông D bồi thường thiệt hại 50% theo giá trị tài sản hiện nay cho ông Ph là không đúng, vì đây cũng là giao dịch giả tạo nhằm che giấu giao dịch vay tài sản. Vì vậy chị L là người vay tiền phải có nghĩa vụ trả vốn, lãi cho ông Ph kể từ ngày nhận tiền vay 04/7/2019 đến ngày xét xử sơ thẩm là 40 tháng 10 ngày. Do đây là giao dịch vay không xác định thời hạn và có lãi nhưng không xác định lãi suất cụ thể, nên phải được điều chỉnh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015. Ông D xác định ngày giao tiền, ông Ph chỉ giao 1.728.000.000đ do trừ lãi trước 72 triệu, nhưng ông Ph không thừa nhận và ông D, kể cả chị L cũng không chứng minh được chỉ nhận 1.728.000.000đ nên không có căn cứ chấp nhận. Do đó, số tiền chị L phải trả cho ông Ph là:

1,8 tỷ X 0,83%/tháng x 40 tháng 10 ngày = 602.580.000đ.

Tổng cộng vốn 1,8 tỷ + lãi 602.580.000d = 2.402.580.000đ.

Xét quan điểm của Kiểm sát viên phúc thẩm là phù hợp, có căn cứ nên chấp nhận đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng đã phân tích. Do tại phiên tòa phúc thẩm chị L và ông D đã xác định lại sự thật của hợp đồng vô hiệu, nên việc sửa án sơ thẩm là khách quan.

[4] Về án phí, do đã sửa án sơ thẩm nên án phí sẽ được xác định lại như sau: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về hợp đồng vô hiệu được chấp nhận nên hai bị đơn đều phải chịu án phí không giá ngạch; riêng bị đơn D còn phải chịu án phí có giá ngạch đối với khoản tiền lại phải trả cùng với chị L 50% (số tiền có thể là 301.290.000đ); bị đơn Ph phản tố yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu bồi thường thiệt hại phần chênh lệch giá không được chấp nhận nên phải chịu án phí có giá ngạch; chị L phải chịu án phí giá ngạch phần trả nợ vay cho ông Ph. Về án phí phúc thẩm: kháng cáo của bị đơn D được chấp nhận nên không phải chịu; kháng cáo của bị đơn Ph không được chấp nhận nên phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, 147, 148, khoản 2 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 117, 118, 124, 357, 408, 466, 468, 469 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Bùi Hữu D; không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Văn Ph; Sửa một phần bản án sơ thẩm.

1/- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Hiền N, bà Tăng Thị P.

+ Tuyên bố Hợp đồng ủy quyền ngày 05/4/2019 giữa ông Trần Hiền N, bà Tăng Thị P với ông Bùi Hữu D vô hiệu.

+ Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/7/2019 giữa ông Bùi Hữu D với ông Hoàng Văn Ph vô hiệu.

+ Kiến nghị UBND quận Bình Thủy - Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất quận Bình Thủy xóa chỉnh lý tên ông Hoàng Văn Ph trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00238 ngày 02/11/2004 (chuyển qua tên ông Ph ngày 27/9/2019) chỉnh lý chuyển lại cho ông Trần Hiền N.

2/- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Hoàng Văn Ph.

3/- Buộc chị Tăng Tố L có nghĩa vụ trả cho ông Hoàng Văn Ph số tiền 2.402.580.000đ (trong đó vốn gốc 1,8 tỷ + lãi 602.580.000đ).

4/- Công nhận sự thỏa thuận ông Bùi Hữu D chịu trách nhiệm trả 50% tiền lãi cho ông Hoàng Văn Ph trên số tiền nợ chị L phải trả cho ông Ph kể cả trong giai đoạn thi hành án.

Kể từ ngày tiếp theo ngày tuyên án sơ thẩm, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

4/- Về án phí: ông D phải chịu 15.064.500đ án phí giá ngạch và 300.000đ án phí không giá ngạch; ông Ph phải chịu 115.507.781đ án phí giá ngạch và 300.000đ án phí không giá ngạch; chị L phải chịu 74.025.800đ án phí sơ thẩm.

Ông Ph được nhận lại số tiền đã nộp tạm ứng án phí 33.000.000đ theo Biên lai số 0001958 ngày 21/4/2022.

5/- Về chi phí đo đạc, thẩm định: 10.000.000đ phía bị đơn chịu; nguyên đơn đã nộp tạm ứng chi xong, nên ông D, ông Ph mỗi người phải nộp 5.000.000đ để hoàn trả nguyên đơn.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hợp đồng ủy quyền số 168/2023/DS-PT

Số hiệu:168/2023/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về