Bản án về tranh chấp hợp đồng giao khoán số 05/2020/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC KẠN - TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 05/2020/DS-ST NGÀY 19/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GIAO KHOÁN

Ngày 19 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 31/2019/TLST - DS, ngày 23 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp Hợp đồng giao khoán”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2019/QĐXXST-DS, ngày 09 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Bá H - sinh năm 1954;

Trú tại: Tổ x, phường S, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Công ty Cổ phần N.

Địa chỉ: Tổ xx, phường S, thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Đức B - Chức vụ: Giám đốc công ty.

Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 04 tháng 7 năm 2019, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Bá H trình bày:

Ngày 05 tháng 4 năm 2015, ông và Công ty cổ phần N đã ký hợp đồng giao khoán về việc: “Sản xuất và lắp dựng khuôn + cửa N3 công trình: Thi công xây dựng và cung cấp lắp đặt thiết bị trụ sở C, tỉnh Bắc Kạn và cụm kho vật chứng C tỉnh – Chi cục T”, với tổng số tiền là 299.045.000đ (Hai trăm chín mươi chín triệu, không trăm bốn mươi lăm nghìn đồng), đến ngày 18/9/2015 ông đã bàn giao công trình theo đúng tiến độ, nhưng đến tháng 12/2016 Công ty CP N mới thanh toán cho ông số tiền 77.315.000đ (Bảy mươi bảy triệu, ba trăm mười lăm nghìn đồng), còn lại 151.730.000đ (Một trăm năm mươi mốt triệu, bảy trăm ba mươi nghìn đồng) công ty vẫn chưa thanh toán cho ông, ông đã nhiều lần đến Công ty và nhà của Giám đốc công ty đòi nhiều lần nhưng ông Nguyễn Đức B là giám đốc khất lần không trả, đến tháng 2/2019 ông có đến nhà Giám đốc công ty thì không gặp được nữa, ông đã đến Cục C tỉnh Bắc Kạn để hỏi thì được biết chủ đầu tư vẫn còn giữ tiền công trình.

Do vậy ông yêu cầu công ty cổ phần N thanh toán cho ông số tiền 151.730.000đ (Một trăm năm mươi mốt triệu, bảy trăm ba mươi nghìn đồng), ông không yêu cầu tính lãi.

Sau khi thụ lý đơn, Tòa án đã tiến hành triệu tập đại diện theo pháp luật và các cổ đông của Công ty cổ phần N đến Tòa án để giải quyết, tuy nhiên đại diện và các cổ đông Công ty không có mặt. Qua xác minh tại Sở kế hoạch đầu tư tỉnh Bắc Kạn thì hiện nay Công ty cổ phần N vẫn hoạt động chưa phá sản, xác minh tại địa chỉ nơi công ty có trụ sở thì Công ty đã đóng cửa chuyển đi đâu thì tổ trưởng dân phố và UBND phường S không nắm được và Công ty cũng không cung cấp địa chỉ mới cho nguyên đơn biết.

Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho Công ty và thông báo phiên hòa giải nhưng phía Công ty vẫn không có mặt, do vậy không tiến hành hòa giải được.

Tòa án đã tiến hành mở và hoãn phiên tòa nhiều lần. Đến ngày 10/5/2020 đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần N là ông Nguyễn Đức B mới có bản tự khai gửi đến Tòa án với nội dung: Ngày 05/4/2015 Công ty cổ phần N có ký kết hợp đồng giao khoán với ông Nguyễn Bá H với nội dung ông H thi công lắp đặt cửa ra vào Cục C tỉnh Bắc Kạn. Sau khi thi công xong công ty cổ phần N đã thanh toán cho ông H được một số tiền, hiện nay Công ty còn nợ lại ông H số tiền là 151.730.000đ , nay ông H khởi kiện buộc Công ty phải trả số tiền trên thì Công ty cũng nhất trí trả, nhưng hiện nay do Công ty đang rất khó khăn, chưa có khả năng thanh toán ngay, Công ty sẽ thanh toán số tiền còn nợ là 151.730.000đ cho ông H vào cuối năm 2020 và năm 2021 và số tiền nợ này không liên quan gì đến Cục C tỉnh Bắc Kạn. Đồng thời ngày 12/5/2020 Công ty cổ phần N có đơn xin xét xử vắng mặt đối với vụ kiện trên.

Tại phiên tòa ông Nguyễn Bá H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và không nhất trí với thời hạn thanh toán mà Công ty cổ phần N đưa ra, ông yêu cầu Công ty phải thanh toán ngay số tiền còn nợ trên cho ông.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông Nguyễn Bá H khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần N phải trả tiền làm cửa theo hợp đồng giao khoán. Do đó đây là tranh chấp hợp đồng dân sự, nên theo quy định tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự, thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Kạn, tỉnh Bắc Kạn thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

Quá trình giải quyết vụ án, Công ty cổ phần N đã được Tòa án triệu tập và niêm yết hợp lệ nhiều lần để hòa giải nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào khoản 1 điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định vụ án này thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Do vậy, quyết định đưa vụ án ra xét xử là có căn cứ. Căn cứ khoản 3 điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về thời hiệu khởi kiện: Theo quy định tại Điều 429/BLDS thì thời hiệu khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Tháng 2/2019 ông H đến nhà Giám đốc công ty đòi nợ thì không gặp được, thì mới biết hiện Công ty đã chuyển đi nơi khác nhưng không thông báo cho ông biết, do đó thời hiệu khởi kiện của ông Nguyễn Bá H vẫn còn.

[3] Về nội dung vụ án: Ngày 05 tháng 4 năm 2015, ông Nguyễn Bá H và Công ty cổ phần N đã ký hợp đồng giao khoán về việc: “Sản xuất và lắp dựng khuôn + cửa N3 công trình: Thi công xây dựng và cung cấp lắp đặt thiết bị trụ sở Cục C tỉnh Bắc Kạn và cụm kho vật chứng Cục C – Chi cục TX”, với tổng số tiền là 299.045.000đ (Hai trăm chín mươi chín triệu, không trăm bốn mươi lăm nghìn đồng), thời gian đến ngày 18/9/2015 ông H đã bàn giao công trình theo đúng tiến độ, nhưng đến tháng 12/2016 Công ty CP N mới thanh toán cho ông H số tiền 77.315.000đ (Bảy mươi bảy triệu, ba trăm mười lăm nghìn đồng), còn lại 151.730.000đ (Một trăm năm mươi mốt triệu, bảy trăm ba mươi nghìn đồng) công ty vẫn chưa thanh toán cho ông, ông H đã nhiều lần đến Công ty và nhà của Giám đốc là ông Nguyễn Đức B đòi nhiều lần nhưng ông B khất lần không trả, đến tháng 2/2019 thì Công ty cổ phần N chuyển đi nơi khác nhưng không thông báo cho ông H biết địa chỉ. Đến ngày 10/5/2020 Đại diện theo pháp luật của Công ty mới có văn bản thừa nhận còn nợ của ông H số tiền trên. Đồng thời theo Điều lệ của Công ty cổ phần N thì Giám đốc là người đại diện theo pháp luật và chịu trách nhiệm mọi hoạt động của Công ty.

Xét thấy yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bá H là có cơ sở chấp nhận, vì vậy buộc Công ty cổ phần N phải thanh toán cho ông Nguyễn Bá H số tiền là 151.730.000đ (Một trăm năm mươi mốt triệu, bảy trăm ba mươi nghìn đồng) và phải chịu án phí dân sự theo quy định.

Việc thi hành án khoản tiền trên được thực hiện theo quy định tại Điều 357/BLDS về việc tính lãi suất.

[4] Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đều thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn và buộc Công ty cổ phần N phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 147/BLTTDS; Điều 116, 117/ Bộ luật dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Bá H, buộc Công ty cổ phần N phải trả cho ông Nguyễn Bá H số tiền là 151.730.000đ (Một trăm năm mươi mốt triệu, bảy trăm ba mươi nghìn đồng).

Việc thi hành án khoản tiền này được thực hiện theo quy định tại Điều 357/BLDS:

“1. Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

2. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này”.

2. Về án phí: Buộc Công ty cổ phần N phải chịu 7.586.500đ (Bảy triệu, năm trăm tám mươi sáu nghìn, năm trăm đồng) án phí dân sự có giá ngạch.

Hoàn trả lại cho ông Nguyễn Bá H số tiền 3.957.500đ (Ba triệu, chín trăm năm mươi bảy nghìn, năm trăm đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà ông H đã nộp theo biên lai thu tiền số 02006, ngày 23/7/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Án xử công khai sơ khẩm có mặt nguyên đơn, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng giao khoán số 05/2020/DS-ST

Số hiệu:05/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Kạn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về