Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự phường số 02/2022/DS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 02/2022/DS-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ PHƯỜNG

Ngày 25 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 21/2021/TLST-DS ngày 15 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng dân sự về phường” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXX-DS ngày 11/3/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đào Công T, sinh năm 1946 Nơi cư trú: thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn:

+ Ông Nguyễn Hữu Th, sinh năm 1972

+ Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1974 Đều cư trú: thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Ông T có mặt; ông Th, bà D có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn Ông Đào Công T có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa: Ông có tham gia 05 phường cùng ông Nguyễn Hữu Th, trong đó có 01 phường do ông Th làm chủ phường, 04 phường do ông làm chủ phường cụ thể như sau:

- Đối với phường do ông Nguyễn Hữu Th làm chủ phường: Vào năm 2016 ông cùng 27 người có vào phường tiền 2.000.000 đồng/người, phường do ông Nguyễn Hữu Th làm chủ phường, hình thức chơi phường mua 1 tháng 1 lần, mua không dưới 200.000 đồng. Phường đã có 15 người mua (trong đó có 1 xuất là của ông Th), còn lại 13 người chưa mua. Đến tháng 12/2017 ông Th bỏ phường thì ông cùng 12 người đã đến nhà ông Th đề nghị anh trả phường cho các ông. Ông Th đã đề nghị bốc số và có nói ai bốc được số nào thì 1 tháng sau mới lấy được tiền. Ông bốc được số thứ 5 vào tháng 4/2018 được lấy phường với tổng số tiền là 28.700.000 đồng(tương ứng với số tiền ông đóng cho 15 người đã lấy phường). Hiện ông Th đã trả 12 người còn 1 mình ông thì ông Th chưa trả đến nay vẫn nợ 28.700.000 đồng.

- Đối với 04 phường do ông làm chủ phường cụ thể như sau:

1. Phường xi măng thành lập ngày 10/10/2012 (âm lịch) do Ông Đào Công T làm chủ phường, có 13 người chơi, hình thức chơi phường mua, mỗi xuất phường 50 bao xi măng khống chế mua không dưới 6 bao xi măng, một năm có 02 người lấy, ông Th lấy ngày 10/10/2015 với số tiền 34.000.000 đồng. Phường kết thúc ngày 16/10/2018 (âm lịch), ông Th đã đóng cho 11 người còn nợ 02 xuất phường tương ứng với 6.800.000 đồng, đối với số tiền này ông đã phải lấy tiền của gia đình ra trả 02 xuất phường, do đó ông Th nợ ông 6.800.000 đồng.

2. Phường tiền thành lập ngày 25/4/2015 (âm lịch) do Ông Đào Công T làm chủ phường, có 16 người chơi, hình thức chơi phường mua, mỗi xuất phường đóng 4.000.000 đồng, khống chế mua không dưới 400.000 đồng, một năm có 4 lần lấy theo quý, ông Th chơi 3 suất phường (gồm suất của ông Th, bà Nguyễn Thị D và con Nguyễn Hữu Q) đã lấy vào các ngày: 29/4/2015 (âm lịch) ông Th nhận tiền 46.500.000 đồng; ngày 29/4/2016 (âm lịch) bà D nhận tiền 47.400.000 đồng và ngày 29/6/2017 (âm lịch) ông Th nhận tiền 56.990.000 đồng. Ông Th đã nộp cho 15 người chơi còn nợ 1 suất vào ngày 28/12/2018 âm lịch (ông Th phải đóng 3 suất phường) = 12.000.000 đồng. Số tiền 12.000.000 đồng này ông đã phải bỏ ra trả cho 1 người chơi, do đó ông Th, bà D nợ ông 12.000.000 đồng.

3. Phường tiền thành lập ngày 10/11/2016 (âm lịch) do Ông Đào Công T làm chủ phường, có 16 người chơi, hình thức chơi phường mua, mỗi xuất phường 5.000.000 đồng, khống chế mua không dưới 500.000 đồng, một năm có 4 lần lấy theo quý, ông Th chơi 2 suất (gồm suất của ông Th và con Nguyễn Hữu Q). Ông Th đã lấy vào các ngày 15/11/2016 (âm lịch) số tiền 54.750.000 đồng; ngày16/10/2018 (âm lịch bà D nhận tiền) số tiền là 62.480.000 đồng. Ông Th đã nộp cho 9 người chơi, còn nợ 7 người vào các ngày 18/01/2019, 20/4/2019; 15/7/2019; 15/10/2019; 16/01/2020;

16/4/2020; 16/6/2020 (âm lịch) ông Th phải đóng 2 suất phường x 7 người x 5.000.000 đồng = 70.000.000 đồng. Số tiền 70.000.000 đồng này Ông T đã phải bỏ ra trả cho 7 người chơi, do đó ông Th, bà D nợ ông 70.000.000 đồng.

- Ngày 28/12/2018 (âm lịch) sau khi thanh toán phường năm 2017 thì ông Th, bà D còn nợ ông 7.020.000 đồng.

Tổng cộng ông Th, bà D nợ ông 124.520.000 đồng. Tháng 4/2020 ông Th trả ông 5.000.000 đồng. Ngày 26/12/2020 (âm lịch) ông Th đã trả ông 10.000.000 đồng. Như vậy sau khi trừ số tiền 15.000.000 đã trả ông thì ông Th, bà D nợ ông 109.520.000 đồng.

Nay ông yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D phải trả ông số tiền chơi phường là 109.520.000 đồng (trong đó có 28.700.000 đồng do ông Th làm chủ phường và 80.820.000 đồng do ông làm chủ phường). Ông không yêu cầu ông Th và bà D phải trả tiền lãi cho ông.

Đồi với số tiền 50.000.000 đồng bà D trình bày đã trả ông, cụ thể năm 2018: trả 20.000.000 đồng, năm 2019: trả 15.000.000 đồng; năm 2020: trả 15.000.000 đồng thì ông xác nhận đã nhận số tiền này nhưng đây là số tiền ông Th, bà D nộp tiền phường tháng và Quý số tiền này ông đã trừ vào chân phường của ông Th, bà D vào tháng 4/2020, ông có đơn giải trình kèm theo. Ông xác định sau khi trừ số tiền 50.000.000 đồng này thì ông Th, bà D còn nợ ông 109.520.000 đồng (trong đó có 28.700.000 đồng do ông Th làm chủ phường và 80.820.000 đồng do tôi làm chủ phường).

Theo lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, tại đơn xin xét xử vắng mặt bị đơn ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D trình bày: Ông Th có tham gia Phường với Ông Đào Công T. Đối với phường do ông Th làm chủ thành lập năm 2016 thì ông Th, bà D xác nhận còn nợ Ông T số tiền 28.700.000 đồng. Đối với 04 phường do Ông T làm chủ thì ông Th, bà D xác định những lần lấy phường có ký vào sổ phường của Ông T. Đối với số tiền 80.820.000 đồng Ông T yêu cầu vợ chồng ông, bà phải trả thì ông Th, bà D đề nghị ông bà có nợ Ông T nhưng không nhớ rõ cụ thể bao nhiêu tiền và xin trả nợ dần. Ông bà cũng không có sổ sách chứng cứ về việc trả tiền phường Ông T.

- Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng, bị đơn chấp hành chưa tốt quy định tại các Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự. Về ý kiến giải quyết vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 16 Nghị định số 19/2019/NĐ- CP ngày 19/02/20219 của chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường; các Điều 351, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015 chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ông Đào Công T; buộc ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D phải trả Ông T số tiền phường còn nợ là 109.520.000 đồng. Đồng thời buộc ông Th, bà D phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Việc Ông Đào Công T khởi kiện ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D trả số tiền phường, hụi còn nợ nên đây là vụ án tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn đang cư trú tại xã A, huyện Q nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 26, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Do ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Th, bà D.

[2] Xét về nội Dung tranh chấp, Ông Đào Công T khởi kiện yêu cầu giải quyết buộc ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D trả số tiền phường còn nợ là 109.520.000 đồng (trong đó có 28.700.000 đồng do ông Th làm chủ phường và 80.820.000 đồng do Ông T làm chủ phường). Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, Ông T đã cung cấp cho Tòa án 04 quyển sổ phường. Quá trình giải quyết vụ án ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D xác nhận đối với phường do ông Th làm chủ thì ông Th, bà D còn nợ Ông T 28.700.000 đồng, đối với 04 phường do Ông T làm chủ thì ông Th, bà D xác nhận có nợ Ông T nhưng không nhớ nợ là bao nhiêu và xin trả dần Ông T. Bà D trình bày có nợ Ông T 109.520.000 đồng và đã trả 50.000.000 đồng, còn nợ Ông T là 59.520.000 đồng nhưng không có chứng cứ về việc đã trả Ông T 50.000.000 đồng, mỗi lần trả tiền phường Ông T thì ông Th, bà D chỉ đưa bằng tay không ký nhận vào sổ nộp phường do đó không có căn cứ để chấp nhận. Từ đó Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ông Đào Công T; buộc ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D phải trả Ông T số tiền phường còn nợ là 109.520.000 đồng.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo: Do toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ông Đào Công T được Tòa án chấp nhận nên ông Th và bà D phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Ông T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm; hoàn lại cho Ông T số tiền tạm ứng án phí 2.738.000 đồng mà Ông T đã nộp. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 16 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/20219 của chính Phủ về họ, hụi, biêu, phường; các Điều 351, 471 Bộ luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ông Đào Công T.

2. Buộc ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D phải trả cho Ông Đào Công T số tiền phường còn nợ là 109.520.000 đồng (một trăm linh chín triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất được quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: ông Nguyễn Hữu Th và bà Nguyễn Thị D phải chịu 5.476.000 đồng (Năm triệu bốn trăm bẩy mươi sáu nghìn đồng). Ông Đào Công T đã nộp tạm ứng án phí với số tiền 2.738.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004532 ngày 15 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Nay hoàn trả lại toàn bộ cho Ông Đào Công T.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự phường số 02/2022/DS-ST

Số hiệu:02/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về