Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự góp hụi số 59/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 59/2022/DS-ST NGÀY 16/12/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG DÂN SỰ GÓP HỤI

Trong ngày 16 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 38/2022/TLST- DS ngày 07 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp về hợp đồng dân sự góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 163/2022/QĐXXST-DS ngày 02 tháng 11 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 102 ngày 22 tháng 11 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Hồng T, sinh năm 1991; Có mặt Nơi ĐK HKTT: Số 0, ấp A, xã L, thị xã L M, tỉnh Hậu Giang; Chỗ ở hiện nay: Ấp B, xã T H, huyện A M, tỉnh Kiên Giang;

2. Bị đơn: Chị Trần Ngọc S, sinh năm 1980 và anh Nguyễn Minh D, sinh năm 1975 Cùng địa chỉ: Ấp N Q, xã Đ T, huyện A B, tỉnh Kiên Giang.

(Chị T và chị S có mặt tại phiên tòa; anh D vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và những ý kiến tại Tòa án nguyên đơn chị Phạm Thị Hồng T trình bày yêu cầu nhƣ sau:

Vợ chồng bà Trần Ngọc S và ông Nguyễn Minh D là chủ hụi có tổ chức chơi hụi cho bà con trong địa bàn ấp xã lân cận trong huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Vào năm 2019 chị có mua hụi (sang tay) các chân hụi (trong một dây hụi do bà S làm chủ). Trong đó, bà S bán hụi thấp hơn giá thị trường một ít để chị có lời, đồng thời chị phải giao làm 01 lần số tiền mua nguyên dây hụi như thỏa thuận để bà S sử dụng.

Đến khi mãn hụi thì bà S giao lại số tiền mua hụi ban đầu (tiền gốc) và số tiền lãi làm 01 lần cho chị, số tiền lãi có khi lên đến vài chục triệu đồng. Do là bà con với nhau nên hai bên không có lập giấy tay mà chỉ thỏa thuận miệng nhưng cả hai đều thực hiện theo đúng nội dung đã thỏa thuận, làm ăn uy tín với nhau.

Do làm ăn mấy lần đầu suôn sẻ, bà S lại là quan hệ bà con ruột thịt với chồng chị, việc thực hiện giao nhận tiền diễn ra đúng thời gian nên chị tin tưởng. Vì vậy đến ngày 09/04/2020 âm lịch thì bà S đã bán cho chị 02 dây hụi (cùng áp vào 01 ngày), mỗi dây có 80 người tham gia x 02 dây = 160 người, mức đóng là 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng)/01 chân/01 lần đóng.

Hai bên thỏa thuận như sau: Vợ chồng bà S, ông D đồng ý bán 02 dây hụi trên với giá là 144.000.000 đ (Một trăm bốn mươi bốn triệu đồng), trong đó chị được lãi liền là 16.000.000 đ (Mười sáu triệu đồng), (số tiền này là chênh lệch giữa giá mua và giá thị trường tại thời điểm mua hụi). Sau đó đến khi mãn hụi bà S, ông D giao tôi số tiền lãi các chân hụi (hoa hồng) là 16.000.000 đ (Mười sáu triệu đồng). Tổng cộng tiền lãi (hoa hồng), tiền lãi do chênh lệch giá thị trường và tiền gốc tổng cộng là 176.000.000đ (Một trăm bảy mươi sáu triệu đồng), trong đó tiền gốc là 144.000.000đ, tiền lãi là 32.000.000 đ. Tuy nhiên đến khi mãn hụi tôi đến gặp bà S, ông D để lấy nhận tiền hụi thì bà S hứa hẹn nhiều lần mà không chịu trả nợ cho chị. Chị yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Trần Ngọc S trả cho chị tiền hụi còn nợ là 144.000.000đ và trả thêm 16.000.000đ tiền lãi. Ngoài ra không trình bày và yêu cầu gì thêm.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn Trần Ngọc S có ý kiến:

Chị S thừa nhận có bán cho chị T 02 dây hụi, hụi ngày 09/04/2020 âm lịch (cùng áp vào 01 ngày), mỗi dây có 80 người tham gia x 02 dây = 160 người, mức đóng là 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng)/01 chân/01 lần đóng. Chị có nhận tiền mua hụi của chị T số tiền 144.000.000đ. Mục đích làm hụi là để kiếm tiền lời mỗi ngày 90.000 đồng đến 100.000 đồng, để chi tiêu cho cuộc sống gia đình.Trước dịch bệnh Covid 19 (tháng 7/2021) chị đã đóng lời cho bà S 02 lần là 64.000.000 đồng, do trước đó làm ăn được nên đã đóng lãi cho bà S, hiện tại thì bị người ta giựt nợ nên không làm được, không có khả năng đóng lãi, nên không đóng lãi cho bà S.

Tại Tòa án chị S xác định còn nợ lại bà S số nợ tiền hụi là 144.000.000 đồng (Một trăm bốn mươi bốn triệu đồng), không đồng ý đóng lãi, nay hoàn cảnh khó khăn xin trả mỗi tháng 500.000 đồng, số nợ này là nợ của chị không liên quan đến chồng chị là ông Nguyễn Minh D.

Anh Nguyễn Minh D trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa đều vắng mặt nên không ghi nhận ý kiến.

Qua yêu cầu khởi kiện và ý kiến của các đƣơng sự đã thống nhất và không thống nhất với nhau.

Phần các đương sự thống nhất: Chị T và chị S thống nhất xác định chị S còn nợ chị T số tiền nợ hụi là 144.000.000đ (Một trăm bốn mươi bốn triệu đồng).

Phần các đương sự không thống nhất: Chị T yêu cầu chị S trả hết nợ trong thời hạn 02 tháng. Chị S yêu cầu được trả mỗi tháng 500.000 đồng cho đến khi dứt nợ.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thiên ký phiên tòa, các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Không có kiến nghị về phần thủ tục tố tụng. Đối với bị đơn anh Nguyễn Minh D vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt đề nghị áp dụng Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Minh D.

Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc chị S trả số tiền còn nợ là 144.000.000đ (Một trăm bốn mươi bốn triệu đồng).

Đi với phần tiền lãi chị T không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ kiện: Bị đơn có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên nên vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân huyện An Biên theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị T khởi kiện yêu cầu chị S trả số tiền nợ hụi nên quan hệ pháp luật được xác định trong vụ án là “Tranh chấp về hợp đồng dân sự góp họ (hụi)”.

[3] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Minh D đã được triệu tập xét xử lần thứ hai hợp lệ ắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh D.

[4] Về nội dung vụ án: Ghi nhận sự thống nhất xác nhận còn nợ giữa các đương sự là: Chị Trần Ngọc S xác nhận còn nợ chị Phạm Thị Hồng T số tiền hụi gốc 144.000.000đ (Một trăm bốn mươi bốn triệu đồng) nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Tuy nhiên, về thời hạn trả nợ các đương sự có yêu cầu ý kiến khác nhau nên không có căn cứ để xem xét công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Về thời hạn trả nợ thì khi bản án có hiệu lực thì các bên căn cứ vào bản án để thực hiện yêu cầu thi hành án theo quy định của Luật thi hành án dân sự.

Tại phiên tòa chị T chỉ yêu cầu chị S trả nợ, không yêu cầu anh D liên đới trả nợ và chị T cũng không yêu cầu phần tiền lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Từ các nhận định nêu trên, HĐXX thống nhất chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn Trần Ngọc S có nghĩa vụ trả cho chị Phạm Thị Hồng T số tiền nợ hụi là 144.000.000đ (Một trăm bốn mươi bốn triệu đồng).

Về ý kiến phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và đề nghị hướng giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát huyện An Biên tại phiên tòa là có cơ sở nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về án phí của vụ án: 144.000.000đ x 5% = 7.200.000đ (Bảy triệu hai trăm nghìn đồng). Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên buộc bị đơn phải nộp án phí theo quy định pháp luật.

Hoàn trả cho nguyên đơn số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân năm 2015; Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015; Điều 7, Điều 8, Điều 15, Điều 18, Điều 23 và Điều 25 của Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 quy định về họ, hụi, biêu, phường;

Áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Thị Hồng T.

Buộc chị Trần Ngọc S có nghĩa vụ trả cho chị Phạm Thị Hồng T số tiền hụi còn nợ là 144.000.000đ (Một trăm bốn mươi bốn triệu đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

2. Về án phí vụ kiện:

Buộc chị Trần Ngọc S phải nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm là 7.200.000đ (Bảy triệu hai trăm nghìn đồng).

Chị Phạm Thị Hồng T được nhận lại số tiền tạm ứng án phí là 4.400.000đ (Bốn triệu bốn trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0004778 ngày 07/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

3. Quyền kháng cáo: Án xử công khai, chị T và chị S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16/12/2022). Anh D vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng dân sự góp hụi số 59/2022/DS-ST

Số hiệu:59/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về