Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới số 03/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 03/2024/DS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM XE CƠ GIỚI

Trong ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 263/2023/TLST-DS ngày 03 tháng 7 năm 2023 về “Tranh chấp Hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2024/QĐXXST-DS ngày 02 tháng 01 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 19/2024/QĐST-DS ngày 18 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

Nguyên đơn:

1- Ông Trần Đình T, sinh năm 1979 2- Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1980 Cùng địa chỉ: ấp L, xã X, huyện Cẩm Mỹ, tỉnh ĐN.

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Ve Ngọc H (Theo Hợp đồng ủy quyền ngày 24/3/2023 của Văn phòng Công chứng Nguyễn Thị Sang tỉnh Đồng Nai, SCC: 000681, quyển số 01/2023/TP/CC-SCC/HĐGD).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: bà Vũ Thị Kim T – Văn phòng Luật sư Yên L.

Bị đơn: Công ty Bảo hiểm BHS SG Địa chỉ: Tầng 7 Tòa nhà Master Building, 155 Hai Bà Trưng, phường VTS, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Bùi Đình H (Theo Giấy ủy quyền số 76/2023/UQ-BSH-PC&KSNB ngày 17/11/2023).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1- Ngân hàng TMCP VNTV, có ông Đoàn Minh T đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số: 258/2023/UQ-VPB ngày 14/8/2023). Địa chỉ: 129 Ng, Phường X, Quận N, Thành phố Hồ Chí Minh.

2- Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại T Địa chỉ: 530 Kinh Dương Vương, phòng A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Có ông Lưu Quốc H đại diện theo ủy quyền.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn ông Trần Đình T, bà Nguyễn Thị T có ông Ve Ngọc H đại diện theo ủy quyền trình bày: Ông Trần Đình T và vợ là bà Nguyễn Thị T sở hữu tài sản chung là xe ôtô nhãn hiệu FORD ECOSPORT biển kiểm soát 60A-X.19 do bà T đứng tên. Thời điểm mua xe vợ chồng ông T bà T phải làm thủ tục vay Ngân hàng TMCP VNTV (VP BANK) và dùng chiếc xe làm tài sản thế chấp cho khoản vay. Hiện ông T và bà T vẫn chưa trả hết nợ gốc. Mọi thủ tục liên quan đến khoản vay mua xe do phía VP BANK chuẩn bị và thực hiện.

Theo đó, ngày 11/7/2022 giữa bà T (người được bảo hiểm), Công ty Bảo Hiểm BHS SG (người bảo hiểm) và VP BANK (người thụ hưởng bảo hiểm) đã ký Hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới số 008-25/22/2G/HD/04799 với mức phí bảo hiểm vật chất xe tổng số tiền 7.800.000 đồng/năm, thời hạn hợp đồng từ 00h00 ngày 30/7/2022 đến 00h00 ngày 30/7/2023. Vợ chồng ông T, bà T đã thanh toán đầy đủ phí bảo hiểm cho Công ty bảo hiểm.

Vào lúc 00 giờ 15 phút ngày 22/9/2022, khi ông T đang lái xe từ tỉnh Đắk Lắk về tới địa phận xã Lộc Bắc, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng thì ô tô bất ngờ bị nổ vỏ trước bên phụ nên lái xe mất lái, lao xuống rãnh thoát nước gây tai nạn giao thông. Khi vừa xảy ra tai nạn, ông T đã gọi điện thoại báo ngay cho số Hotline của Công ty bảo hiểm và được hướng dẫn trình báo Công an xã Lộc Bắc và kiểm tra nồng độ cồn.

Sau đó ông T đã trình báo đến Công an xã Lộc Bắc và có xác nhận của Công an xã về sự việc tại nạn vào ngày 22/9/2022. Đến trưa ngày 22/9/2022, trên đường về Thành phố Hồ Chí Minh ông T ghé qua Trung tâm y tế huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai để kiểm tra nồng độ cồn. Do hoàn toàn không sử dụng rượu bia hoặc nước uống có cồn khác khi điều khiển ô tô nên ông T đã không thắc mắc gì về kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong máu.

Ngày 11/10/2022, Công ty BSH đã gửi cho ông T Tờ trình về việc đề xuất phương án và giá sửa chữa xe đã được phê duyệt. Tiếp theo ngày 02/11/2022, Công ty gửi cho ông T Thông báo duyệt giá sửa chữa. Chờ đợi một thời gian ông T được hãng xe thông báo đã sửa chữa xong những phía bảo hiểm chưa thanh toán. Ông T đã chủ động liên hệ nhiều lần thì nhân viên phụ trách bảo hiểm mới giao cho ông T Tờ trình bồi thường ngày 15/12/2022 và báo2cho ông T biết Công ty từ chối bồi thường trường hợp tai nạn của ông T do vi phạm quy tắc bảo hiểm, cho rằng có nồng độ cồn trong kết quả xét nghiệm.

Quá bức xúc, ông T đã liên hệ Trung tâm y tế huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai để thắc mắc vì sao trong máu lại có chỉ số nồng độ cồn thì được Bác sỹ giải thích nồng độ cồn trong máu dưới 0,46 miligam/100 mililít máu được xem là không có cồn theo Quyết định số: 320/QĐ-BYT ngày 23/01/2014 của Bộ Y tế vì ngay cả khi không uống rượu bia hoặc nước uống có cồn khác thì cơ thể vẫn có thể sinh ra một lượng cồn nhỏ gọi là cồn sinh học từ việc ăn uống, sinh hoạt hàng ngày.

Tuy nhiên, phía Công ty lại đưa ra quy định giảm trừ bồi thường để từ chối chi trả tiền bảo hiểm. Cụ thể, Công ty căn cứ Điều 8 Quy tắc bảo hiểm ô tô ban hành theo Quyết định số: 2758/2018/QĐ-BSH-QLNV1 ngày 25/12/2018 của Tổng Giám đốc Công ty CP Bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội quy định: “Người điều khiển xe ô tô trong tình trạng có nồng độ cồn trong máu hoặc khi thở, sử dụng ma túy và chất kích thích bị cấm theo quy định của pháp luật.” và Điều 8 Luật Giao thông đường bộ 2008 quy định các hành vi bị nghiêm cấm: “Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”.

Mặc dù, Công ty BSH viện dẫn Điều 8 Luật Giao thông đường bộ 2008 nhưng lại cố tình không viện dẫn đầy đủ, chính xác, rõ ràng về chỉ số nồng độ cồn bị cấm “Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililit máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.”. Đối chiếu với kết quả xét nghiệm nồng độ cồn của ông T vào ngày 22/9/2022 chỉ có 0,46 mg/dl (0,46 miligam/1 decilít khí máu) tương đương với 0,46 miligam/100 mililít máu.

Như vậy, căn cứ quy định của Điều 8 Luật Giao thông đường bộ thì chỉ số nồng độ cồn của ông T là 0,46 miligam/100 mililít máu thì chưa bằng 1/100 so với chỉ số bị cấm là vượt quá 50 miligam/100 mililít máu”. Ông T đã nhiều lần gửi văn bản yêu cầu Công ty phải chi trả tiền bảo hiểm đúng quy định nhưng Công ty vẫn cố tình né tránh. Hiện nay, xe của gia đình ông T vẫn đang nằm bất động trong hãng. Đây là phương tiện di chuyển để làm việc của gia đình ông T mỗi ngày, do đặc thù công việc nên ông T thường xuyên di chuyển từ Đồng Nai đi Đắk Lắk, Lâm Đồng, Gia Lai, Tây Ninh, Bình Thuận ... nên ông T buộc phải thuê xe ô tô khác để di chuyển với chi phí 7.000.000 đồng/tháng.

Nay nguyên đơn yêu cầu Công ty Bảo Hiểm BHS SG bồi thường thiệt hại phát sinh chi phí sửa chữa xe, tạm tính là: 129.522.836 đồng, và tiền do việc chậm chi trả tiền bảo hiểm; bồi thường thiệt hại phát sinh do vi phạm trách nhiệm chi trả bảo hiểm là 12 tháng tiền thuê xe ô tô số tiền: 84.000.000 đồng.

Bị đơn Công ty Bảo hiểm BHS SG có ông Bùi Quỳnh Hưng đại diện theo ủy quyển trình bày: Phía Công ty Bảo hiểm xác nhận việc ông T và bà T có mua bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty Bảo hiểm BSH. Ngày 22/9/2022 ông T gây tai nạn tại Lâm Đồng, khi đó Công ty đã hướng dẫn ông T đi xét nghiệm nồng độ cồn trong máu, theo đó kết quả là: 0,46mg/1dl. Phía Công ty cho rằng ông T có nồng độ cồn trong máu nên không đồng ý bồi thường. Tuy nhiên, hiện nay phía Công ty đồng ý chia sẽ 70% thiệt hại chi phí sửa chữa xe cho ông T, bà T.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng TMCP VNTV có ông Đoàn Minh T đại diện theo ủy quyền trình bày: phía Ngân hàng không có ý kiến gì về tranh chấp giữa ông T và Công ty Bảo hiểm. Ngân hàng xin vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ kiện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại T đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn vắng mặt, nên không có ý kiến trình bày trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

Tại phiên toà:

- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bổ sung thêm yêu cầu khởi kiện như sau: đề nghị bị đơn thanh toán chi phí lưu kho bãi số tiền 10.800.000 đồng.

- Bị đơn Công ty Bảo hiểm BHS SG trình bày: do ông T có nồng độ cồn trong máu nên Công ty không đồng ý bồi thường. Tuy nhiên, tại phiên tòa Công ty đồng ý chia sẻ thiệt hại chi phí sửa chữa xe cho ông T là 70% trên số tiền mà Công ty T báo chi phí sửa chữa là: 108.694.526 đồng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng TMCP VNTV (xin vắng mặt); Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại T (vắng mặt).

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Luật sư Vũ Thị Kim T trình bày ý kiến như sau:

Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn cụ thể: buộc bị đơn thanh toán lại cho nguyên đơn chi phí sửa chữa xe ô tô số tiền: 129.522.836 đồng; chi phí lưu kho bãi số tiển: 10.800.000 đồng. Bồi thường thiệt hại phát sinh do vi phạm trách nhiệm chi trả bảo hiểm là 12 tháng tiền thuê xe ô tô: 84.000.000 đồng.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: các đương sự đã chấp hành quy định pháp luật và Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành tố tụng đúng theo qui định tại Bộ luật tố tụng Dân sự.

Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phần trình bày của các đương sự tại phiên tòa thì yêu cầu của nguyên đơn là không có cơ sở. Do đó Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đề nghị Toà án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Đề nghị HĐXX ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn về việc hỗ trợ 701% chi phí sử xe cho nguyên đơn theo mức giá Công ty T báo là 108.694.526 đồng.

Về yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn đối với chi phí lưu kho bãi, đề nghị HĐXX không xem xét do vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết Tòa án:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị T và ông Trần Đình T khởi kiện, yêu cầu tranh chấp hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới. Bị đơn Công ty Bảo hiểm BHS SG có trụ sở Quận 3 nên đây là vụ án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 3 được quy định tại Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tố tụng:

[2.1] Tại phiên tòa, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vương đề nghị xét xử vắng mặt; Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại T vắng mặt. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2.2] Về thời hiệu: yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng bảo hiểm nên thời hiệu khởi kiện của vụ án là 03 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp theo quy định tại Điều 30 của Luật bảo hiểm. Ngày 15/12/2022 là ngày BSH từ chối bồi thường, đến ngày 03/7/2023 Tòa án thụ lý vụ án, như vậy thời hiệu khởi kiện của nguyên đơn vẫn đảm bảo theo quy định của pháp luật.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn:

Xét nguyên đơn yêu cầu Bị đơn thanh toán lại cho nguyên đơn chi phí sửa chữa xe ô tô số tiền: 129.522.836 đồng. Bồi thường thiệt hại phát sinh do vi phạm trách nhiệm chi trả bảo hiểm là 12 tháng tiền thuê xe ô tô: 84.000.000 đồng.

Căn cứ hợp đồng bảo hiểm tự nguyện xe cớ giới số: 008- 25/22/2G/HD/04799 ngày 11/7/2022 quy định về điều kiện, điều khoản, điểm loại trừ bảo hiểm theo nguyên tắc bảo hiểm tự nguyện xe cớ giới” ban hành theo Quyết định số: 2758/2018/QĐ-BSH-QLNVI ngày 25/12/2018 của Tổng giám đốc Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội. Theo đó bà T đã ký tên, có đóng dấu xác nhận của Công ty Bảo hiểm Sài Gòn - Hà Nội thể hiện nội dung bà T đã đọc và hiểu “Quy tắc bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự” hiện hành của BSH.

Theo kết quả xét nghiệm nồng độ cồn của Trung tâm Y tế huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai đã xác định nồng độ cồn của ông T là: 0,1mmol/L và 0,46mg/dl.

Theo nội dung trả lời xác minh của Trung tâm Pháp Y trả lời cho Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh về nội dung xác minh của công văn số 1779/TAQ3 của Tòa án nhân dân Quận 3 như sau: “…Theo Quyết định số 320/QĐ-BYT ngày 23/01/2014 về việc ban hành tài liệu “hướng dẫn quy trình kỹ thuật chuyên ngành hóa sinh”, phần IV “nhận định kết quả” có ghi:

+ Trị số bình thường: < 10,9 mmol/L.

+ Ethanol từ 10,9-21,7 mmol/L: biểu hiện đỏ mặt, nôn mửa, phản xạ chậm chạm, giảm nhạy bén.

+ 21,7 mmol/L: biểu hiện ức chế thần kinh trung ương.

+ 86,8 mmol/L” có thể gây nguy hại cho tính mạng.

Tại công văn số: 8342/PC08-Đ3 ngày 27/10/2023 trả lời xác minh nồng độ cồn trong máu theo Công văn số: 1561/TAQ3 ngày 18/10/2023 của Tòa án nhân dân Quận 3, Phòng cảnh sát Giao thông Công an Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến như sau:

Căn cứ kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong máu của ông Trần Đình T là:

0,1 mmol/L; 0,46mg/GL.

Theo quy định tại khoản 8 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định hành vi bị nghiêm cấm,: Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dung trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn. Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.

Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 35 Luật phòng chống tác hại của rượu bia năm 2019 có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2020 quy định: sửa đổi, bổ sung khoản 8 Điều 8 của Luật giao thông đường bộ số 23/2008/QH12 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 35/2018/QH14 như sau:

“8. Điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”.

Tại điểm c khoản 6 Điều 6 Nghị định số 100/NĐ-Cp ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt quy định: Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người điều khiển xe mô ôt, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe mô tô và các loại xe thương tự xe ga81nma1y vi phạm hành vi “Điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít” máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/lít khí thở.

Như vậy, ông Trần Đình T đã vi phạm nồng độ cồn trong máu khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông (điểm c khoản 6 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP).

Theo quy định tại Điều 8 quy tắc bảo hiểm ô tô ban hành kèm theo Quyết định số: 2758/2018/QĐ-BSH-QLNVI ban hành ngày 25/12/2018 của Bảo hiển BSH quy định: “Những điểm loại trừ chung: BSH không chịu trách nhiệm bồi thường bảo hiểm trong các trường hợp sau:

… “4. Người điều khiển xe ô tô trong tình trạng có nồng độ cồn trong máu hoặc khí thở, sử dụng ma túy và chất kích thích bị cấm theo quy định của pháp luật”.

Như vậy, “Quy tắc bảo hiểm tự nguyện xe cớ giới” ban hành kèm theo Quyết định số: 2758/2018/QĐ-BSH-QLNVI ngày 25/12/2018 của Tổng giám đốc Tổng Công ty Cổ phần Bảo hiểm Sài Gòn – Hà Nội đã được quy định cụ thể trong hợp đồng Bảo hiểm và bà T đã được đọc và hiểu rõ điểm loại trừ bảo hiểm theo đúng quy định tại Điều 16 Luật kinh doanh bảo hiểm.

Theo khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ; khoản 6, Điều 35 Luật phòng chống tác hại rượu bia (có hiệu lực ngày 01/01/2020); điểm c khoản 6 Điều 5 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định về các hành vi bị nghiêm cấm khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông “Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”.

Thời điểm xét nghiệm nồng độ cồn của ông T vào ngày 22/9/2022 là thời điểm có Luật giao thông đường bộ, Luật phòng chống tác hại rượu bia đã có hiệu lực pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên cùng với các các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử không có cở sở không chấp nhận toàn bộ yêu của nguyên đơn.

Đối với yêu cầu bổ sung tại phiên tòa của nguyên đơn: đề nghị bị đơn thanh toán chi phí lưu kho bãi số tiển: 10.800.000 đồng. Xét, yêu cầu khởi kiện bổ sung này vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu nên HĐXX không xem xét.

Xét, tại phiên tòa bị đơn đồng ý tự nguyện hỗ trợ nguyên đơn số tiền 70% chi phí sửa chữa xe ô tô theo mức giá Công ty T báo là 108.694.526 đồng nên HĐXX ghi nhận sự tự nguyên hỗ trợ này của bị đơn.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ nêu trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 267, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 12, 13, 14, 15, 16, 17, 40 Luật kinh doanh Bảo hiểm năm 2000 được sửa đổi, bổ sung năm 2010;

Khoản 8 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2018;

Khoản 6 Điều 5; Điều 35 Luật phòng chống tác hại rượu bia;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Điểm c khoản 6 Điều 5 Nghị định 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ;

Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự. Tuyên xử:

[1]. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị T và ông Trần Đình T về việc: Công ty Cổ phần Bảo hiểm Sài Gòn phải bồi thường thiệt hại của xe ô tô nhãn hiệu: FORD ECOSPORT biển kiểm soát 60A-X.19 với tổng số tiền: 213.522.836 đồng (Hai trăm mười ba ngàn năm trăm hai mươi hai ngàn tám trăm ba mươi sáu đồng), trong đó: chi phí sửa chữa xe ô tô số tiền: 129.522.836 đồng. Bồi thường thiệt hại phát sinh do vi phạm trách nhiệm chi trả bảo hiểm là 12 tháng tiền thuê xe ô tô: 84.000.000 đồng.

[2] Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn Công ty Bảo hiểm BHS SG hỗ trợ 70% chi phí sửa chữa xe ô tô theo mức giá Công ty T báo là 108.694.526 đồng (Một trăm lẻ tám tiệu sáu trăm chín mươi bốn ngàn năm trăm hai mươi sáu đồng).

[3]. Về án phí: Ông T và bà T phải chịu án phí là: 10.676.142 đồng (Mười triệu sáu trăm bảy mươi sáu ngàn một trăm bốn mươi hai đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được cấn trừ vào số tiển tạm ứng án phí đã nộp là: 5.388.070 đồng theo biên lai số: 0000650 ngày 03/7/2023 của Chi cục thi hành án Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông T, bà T còn phải nộp thêm số tiền 5.288.072 đồng (Năm triệu hai trăm tám mươi tám ngàn không trăm bảy mươi hai ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

694
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới số 03/2024/DS-ST

Số hiệu:03/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 3 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về