Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 01 tháng 04 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 30/2022/TLST- HNGĐ về việc “ Yêu cầu ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 03 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 08/QSTT-HNGĐ ngày 21/3/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Thanh T - Sinh năm 1987 ĐKNKTT: khối 12, phường Trường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An – có mặt

Bị đơn: anh Trần Mạnh T - Sinh năm 1985 ĐKNKTT: xóm Yên B, xã Hưng Đông, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Chỗ ở: khối Đông Lâm, phường D, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và lời trình bày của các đương sự tại phiên tòa thì vụ án có nội dung như sau:

Chị Hoàng Thị Thanh T trình bày: chị T và anh Trần Mạnh T lấy nhau do hai bên tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND phường Hưng Bình, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn và đã ly hôn, tại thời điểm đó vợ chồng có 1 con chung. Sau đó vì con cái nên vợ chồng quay lại với nhau và đăng ký kết hôn lại vào ngày 28/4/2020 tại UBND phường Trường T, thành phố Vinh. Trong quá trình chung sống anh T vẫn không chịu tu chí làm ăn nên đã phải bán nhà trả nợ, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và đến tháng 7/2021 thì vợ chồng sống ly thân, chị T mang con về bên ngoại sống cho đến nay. Chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã kéo dài và trầm trọng nên xin được ly hôn với anh T.

Về con: vợ chồng có 1 con chung là Trần Hông A, sinh ngày 08/7/2015.

Ly hôn chị T có nguyện vọng được nuôi con chung không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Trần Mạnh T do vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng nên Tòa án đã tiến hành niêm yết và lấy lời khai bố đẻ anh T là ông Trần Văn Bảo và được cung cấp như sau: chị T và anh T lấy nhau và đã có 1 con chung là cháu Trần Hông A, trước đây vợ chồng chị T, anh T sống chung cùng vợ chồng ông nhưng do nợ nần nên vợ chồng chị T, anh T đã bán căn nhà do bố mẹ cho để trả nợ nên hiện nay vợ chồng ông Bảo và anh T thuê nhà tại khối Đông Lâm, phường D để ở còn chị T đưa con về bên ngoại sống cho đến nay. Hiện nay chị T làm đơn ly hôn anh T, nhưng do anh T không có việc làm nên đi làm thuê để sinh sống. Mặc dù đã nhận được giấy báo của Tòa án nhiều lần nhưng anh T không thể trực tiếp về tại Tòa án nhân dân Thành phố vinh để làm thủ tục ly hôn nên anh T có nhờ ông Bảo đến Tòa án để trình bày nguyện vọng của anh T và nhất trí ly hôn và cho anh T được vắng mặt, về con chung của vợ chồng thì đề nghị giao con chung của vợ chồng cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, về tài sản hiện tại vợ chồng không có tài sản gì. Vì vậy, ông Bảo đề nghị Tòa án giải quyết cho chị T ly hôn anh T theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vinh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau: Tòa án thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký Tòa án thực hiện các bước tố tụng đúng theo quy định của pháp luật. Thời hạn xét xử đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, yêu cầu khởi kiện là có căn cứ. Bị đơn anh T vắng mặt mặc dù đã được tống đạt hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt anh T là đúng theo quy định.

Về nội dung vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu có tại hồ sơ vụ án và thẩm vấn công khai tại phiên tòa xác định đây là vụ án ly hôn. Về tình cảm: chị T, anh T lấy nhau trên cơ sở tình yêu tự nguyện, do hai bên tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND phường Trường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 24/8/2020. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 7/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng tính tình không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, mặt khác do anh T không chịu tu chí làm ăn nên xảy ra bất đồng quan điểm, tình cảm vợ chồng cũng ngày càng xa cách và sống ly thân từ đó đến nay. Xét mâu thuẫn giữa chị T và anh T đã rất trầm trọng, hôn nhân không có hạnh phúc nên cần xử cho chị T được ly hôn với anh T.

Về con: Quá trình chung sống chị T, anh T có vợ chồng có 1 con chung là Trần Hông A, sinh ngày 08/7/2015. Ly hôn chị T có nguyện vọng được nuôi con chung không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Hiện tại cháu Hồng Anh đang ở với mẹ, anh T vắng mặt. Xét nguyện vọng của chị T là chính đáng nên giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh T do chị T không yêu cầu.

Về tài sản: chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết về phần tài sản nên miễn xét.

Về án phí: buộc chị T phải chịu án phí ly hôn theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự, quan điểm của đại diện VKS Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Hội đồng xét xử xét thấy:

1. Về thủ tục tố tụng: đây là vụ án tranh chấp ly hôn và yêu cầu nuôi con, bị đơn là anh Trần Mạnh T có hộ khẩu thường trú tại xóm Yên Bình, xã Hưng Đông, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An và hiện nay đang thuê nhà ở tại khối Đông Lâm, phường D, thành phố Vinh nên Tòa án nhân dân Thành phố Vinh giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 điều 28 BLTTDS. Tòa án đã tống đạt các văn bản thụ lý vụ án, thông báo phiên họp, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho anh T theo đúng quy định và hợp lệ nhưng anh T vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 điều 28, điều 147, khoản 3 điều 228, điều 271, điều 273 BLTTDS để giải quyết vụ án.

2. Về nội dung vụ án:

- Về tình cảm: chị Hoàng Thị Thanh T và anh Trần Mạnh T lấy nhau do hai bên tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại UBND phường Trường T, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 24/8/2020, hôn nhân tự nguyện và hợp pháp nên được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống giữa vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn từ tháng 7/2021 đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không phù hợp tính tình quan điểm sống, nên đã sống ly thân từ năm 2021. Tòa án đã tiến hành mở phiên họp và phiên hòa giải nhiều lần nhưng tình vợ chồng chị T, anh T vẫn không cải thiện được. Và cho đến nay chị T, anh T vẫn sống ly thân chứng tỏ mâu thuẫn giữa vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình cảm không còn. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T, anh T đã rất trầm trọng, mâu thuẫn đã kéo dài, hôn nhân không có hạnh phúc nên cần xử cho chị Hoàng Thị Thanh T được ly hôn anh Trần Mạnh T.

- Về con chung: Quá trình chung sống chị T, anh T có 1 con chung là Trần Hông A, sinh ngày 08/7/2015. Quá trình giải quyết vụ án chị T có nguyện vọng được nuôi con chung không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Xét nguyện vọng của chị T là chính đáng, hiện tại do anh T đi làm ăn xa chưa có chỗ ở ổn định, con chung hiện đang sống với chị T. Để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái cần giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị T không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con nên cần tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh T.

- Về quyền thăm nom, gặp gỡ và chăm sóc con chung sau khi ly hôn: anh T có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom và chăm sóc, gặp gỡ con chung; chị T và người thân trong gia đình không ai được ngăn cấm.

- Về tài sản: chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

- Về án phí: Buộc chị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điều 56,81,82,83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28, điều 147, khoản 3 điều 228, điều 271, điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết 326/2017/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, xử:

- Về quan hệ tình cảm: xử cho chị Hoàng Thị Thanh T được ly hôn anh Trần Mạnh T.

- Về con chung: giao con chung là Trần Hông A, sinh ngày 08/7/2015 cho chị Hoàng Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng cho đên khi con đủ tuổi trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho anh T do chị T không yêu cầu.

Anh T có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom, chăm sóc và gặp gỡ con chung, chị T và người thân trong gia đình không ai được ngăn cấm.

Về án phí: chị Hoàng Thị Thanh T phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ do đã nộp tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Vinh theo biên lai nộp tiền số 0009827 ngày 17 tháng 01 năm 2022.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị T có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Anh T vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về