TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 107/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 16 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳ Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 88/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 7 năm 2022 về Tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Th. Sinh năm: 1994.
Trú tại: Bản NP, xã CN, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
Vắng mặt.
- Bị đơn: Anh Vi Văn B. Sinh năm: 1990.
Trú tại: Bản NP, xã CN, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 15/7/2022, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Hoàng Thị Th trình bày: Chị và anh Vi Văn B kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại UBND xã CN, huyện Qùy Châu, tỉnh Nghệ An vào ngày 07 tháng 4 năm 2015. Sau khi kết hôn thì hai người chung sống với nhau không hạnh phúc.
Nguyên nhân là do giữa hai người tính tình không hợp nhau nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xích mích với nhau, anh B không chịu khó lao động sản xuất mà lại nghiện chất ma túy. Vì vậy, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay. Chị Th đã bỏ về sinh sống tại nhà bố, mẹ đẻ và từ đó thì giữa hai người không còn quan tâm, chăm sóc gì lẫn nhau nữa. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, quan hệ vợ chồng không còn tình cảm và không còn hạnh phúc. Vì vậy, chị Hoàng Thị Th làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Vi Văn B.
Về quan hệ con cái: Chị Hoàng Thị Th và anh Vi Văn B có một con chung là cháu Vi Minh T, sinh ngày 14 tháng 5 năm 2016. Sau khi chị Th và anh B sống ly thân thì con chung ở cùng với chị Th tại nhà bố mẹ đẻ của chị Th. Nếu ly hôn thì chị Th xin nhận nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh B phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Ngoài ra, hai người không nhận nuôi con nuôi và không ai có con riêng.
Về tài sản: Chị Hoàng Thị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản.
Sau khi thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập đương sự và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và hòa giải cho anh Vi Văn B, tuy nhiên anh B không có mặt tại Tòa án để tham gia giải quyết vụ án. Qua xác minh tại UBND xã CN được biết, sau khi nhận được Thông báo thụ lý vụ án, các Giấy triệu tập đương sự và Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp chứng cứ và hòa giải thì cán bộ UBND xã CN đã trực tiếp đi giao cho anh B. Tuy nhiên, anh B không có mặt ở nhà nên đã không tống đạt được các văn bản tố tụng nói trên cho anh B. Theo thông tin từ mẹ đẻ của anh B (Bà Lương Thị T) cung cấp cũng như kết quả xác minh tại Công an xã CN được biết, anh Vi Văn B có hộ khẩu thường trú tại bản NP, xã CN, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An. Hiện nay anh B đang đi làm ăn xa, không có mặt tại địa phương, anh B cũng không làm thủ tục khai báo tạm vắng theo quy định. Thỉnh thoảng anh B có liên lạc về với gia đình bằng điện thoại nhưng gia đình không biết rõ địa chỉ cụ thể của anh B. Gia đình cũng đã thông báo cho anh B về việc chị Th làm đơn ly hôn nhưng do đang đi làm ăn xa nên anh B không có mặt tại Tòa án để tham gia giải quyết vụ án.
Quá trình giải quyết vụ án và chuẩn bị xét xử, cán bộ Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu đã tiến hành niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập phiên tòa theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Cho chị Th được ly hôn với anh B, giao con chung cho chị Th nuôi dưỡng và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh B. Áp dụng điều 147 BLTTDS, buộc chị Th phải chịu án phí DSST.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tranh chấp giữa chị Hoàng Thị Th và anh Vi Văn B là “Ly hôn”. Vì vậy, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu theo quy định tại khoản 1 điều 28 và điểm a khoản 1 điều 35 BLTTDS.
[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Hoàng Thị Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Anh Vi Văn B không có mặt theo Giấy triệu tập của Tòa án. Đây là lần thứ hai Tòa án mở phiên tòa và triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn vẫn vắng mặt. Xét thấy, bị đơn không có yêu cầu phản tố. Vì vậy, căn cứ vào các điểm a, b khoản 2 điều 227 và các khoản 1, 3 Điều 228 BLTTDS, điểm a khoản 2 điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Th và anh B.
[2] Về nội dung:
[2.1] Quan hệ tình cảm: Hôn nhân giữa chị Hoàng Thị Th và anh Vi Văn B được xác lập trên cơ sở tự nguyện, Bnh đẳng và có đăng ký kết hôn phù hợp với quy định của pháp luật. Quá trình chung sống thì giữa hai người đã xảy ra mâu thuẫn và nay đã sống ly thân từ tháng 5 năm 2021 cho đến nay. Hai người đã không còn quan tâm hay còn tình cảm với nhau nữa, vì vậy chị Th nhất quyết ly hôn. Thấy rằng, hôn nhân của chị Th - anh B không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nên chấp nhận yêu cầu của chị Th, cho chị Hoàng Thị Th được ly hôn với anh Vi Văn B, điều này là phù hợp với thực tế cuộc sống và cũng là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
[2.2] Quan hệ con cái: Con chung của chị Hoàng Thị Th và anh Vi Văn B là cháu Vi Minh T, sinh ngày 14 tháng 5 năm 2016. Quá trình giải quyết vụ án, chị Th có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, hiện nay con chung đang ở với thị Th và anh B hiện nay không có mặt tại địa phương nên yêu cầu của chị Th là phù hợp với quy định của pháp luật. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của chị Th, giao con chung cho chị Th chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Vi Văn B.
[2.3] Quan hệ tài sản: Chị Hoàng Thị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản. Vì vậy, nên miễn xét.
[3] Về án phí: Cần buộc chị Hoàng Thị Th phải chịu án phí DSST về ly hôn.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; các điểm a, b khoản 2 Điều 227; các khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 147 BLTTDS;
- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án;
1. Chấp nhận yêu cầu của chị Hoàng Thị Th. Cho chị Hoàng Thị Th được ly hôn với anh Vi Văn B.
2. Về con cái:
- Giao cháu Vi Minh T, sinh ngày 14 tháng 5 năm 2016 cho chị Hoàng Thị Th chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi trưởng thành.
- Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Vi Văn B.
- Anh Vi Văn B có quyền đi lại, thăm nom và giáo dục con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Hoàng Thị Th phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí DSST về ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0006434 ngày 18 tháng 7 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu. Chị Th đã nộp đủ án phí DSST.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Hoàng Thị Th và anh Vi Văn B có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.
Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 107/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 107/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Châu - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về