Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 03/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 03/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 17 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 135/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021 về Tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 31 tháng 12 năm 2021 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Hà Ngọc A, sinh năm 1991; Nơi cư trú: Tổ 6, phường H, thành phố T, tỉnh T.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn D, sinh năm 1993;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 16, phường L, thành phố P, tỉnh H1.

Chỗ ở: Tổ 6, phường H, thành phố T, tỉnh T.

(Tại phiên tòa vắng mặt chị Hà Ngọc A và anh Phạm Văn D).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Hà Ngọc A trình bày và có yêu cầu như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Ngọc A và anh Phạm Văn D được tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, thành phố P, tỉnh H1 ngày 03/01/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ đẻ chị A tại tổ 22 (nay là tổ 6), phường H, thành phố T. Vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm cãi nhau. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng tuy đã được hai bên gia đình và chính quyền cơ sở hòa giải, khuyên bảo nhưng không có kết quả. Từ đầu năm 2018 cho đến nay vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau. Nay chị A xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị A đề nghị Tòa án giải quyết cho chị A được ly hôn anh Phạm Văn D.

- Về nuôi con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Phạm Hà Minh Đ, sinh ngày 17/8/2017. Vợ chồng ly hôn chị A xin được trực tiếp nuôi dưỡng con Đ, chị A không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con Đ. Hiện tại chị A làm nghề tự do, mỗi tháng thu nhập khoảng 7.000.000 đồng. Vì làm nghề tự do nên chị A không có chứng cứ để nộp cho Tòa án.

- Về chia tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung tài sản của ai. Chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng.

Chị A và anh Phạm Văn D đã làm đơn thỏa thuận đề ngày 29/4/2021 về con chung và tài sản chung như quan điểm chị A đã trình bày, nay chị A không thay đổi nội dung đã thỏa thuận.

* Bị đơn anh Phạm Văn D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn D và chị Hà Ngọc A được tự nguyện tìm hiểu, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, thành phố P, tỉnh H1 vào ngày 03/01/2016.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ đẻ chị A tại tổ 22 (nay là tổ 6), phường H, thành phố T. Vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, thường xuyên xảy ra va chạm, cãi nhau. Mâu thuẫn ngày càng căng thẳng tuy đã được hai bên gia đình hòa giải, khuyên bảo. Từ đầu năm 2018 cho đến nay vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến cuộc sống riêng của nhau nữa. Chị A xin ly hôn, anh D xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh D đồng ý ly hôn.

- Về nuôi con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Phạm Hà Minh Đ, sinh ngày 17/8/2017. Vợ chồng ly hôn anh D đồng ý để chị A được trực tiếp nuôi dưỡng con Đ, việc cấp dưỡng nuôi con Đ anh D và chị A sẽ thỏa thuận với nhau sau.

- Về chia tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ chung tài sản của ai. Anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung của vợ chồng.

* UBND phường H, thành phố T cung cấp:

Chị Hà Ngọc A có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 6, (trước đây là tổ 22) phường H, thành phố T. Anh Phạm Văn D có đăng ký tạm trú tại tổ 6, phường H, thành phố T. Anh Phạm Văn D và chị Hà Ngọc A đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường L, thành phố P, tỉnh H1 vào ngày 03/01/2016.

Sau khi kết hôn anh Phạm Văn D và chị Hà Ngọc A chung sống tại nhà bố mẹ đẻ chị A khoảng 01 năm. Vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Khoảng thời gian gần đây anh D đi làm ăn ở xa, địa chỉ cụ thể ở đâu thì địa phương không biết. Vợ chồng có 01 con chung là cháu Phạm Hà Minh Đ, sinh ngày 17/8/2017, hiện tại cháu Đ đang ở cùng mẹ và ông bà ngoại tại tổ 6, phường H, thành phố T. Vợ chồng có tài chung, có vay ai tài sản gì không thì địa phương không biết. Việc chị A và anh D xin ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

* Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình phát biểu ý kiến:

1. Về tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Thẩm phán đã xác định đúng thẩm quyền và thụ lý vụ án; thực hiện đầy đủ các thủ tục cấp, tống đạt các văn bản tố tụng, quyết định đưa vụ án ra xét xử và thời hạn chuẩn bị xét xử được thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự.

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Về thành phần tham gia xét xử và việc tiến hành thủ tục tố tụng tại phiên tòa được thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của pháp luật.

- Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến nay nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng các quy định về quyền và nghĩa vụ của mình, có bản tự khai, giao nộp các tài liệu, chứng cứ tham gia đầy đủ theo triệu tập của Tòa án phục vụ cho việc giải quyết vụ án.

2. Về nội dung:

- Về hôn nhân: Xử cho chị Hà Ngọc A được ly hôn anh Phạm Văn D.

- Về nuôi con chung: Giao cho chị Hà Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Hà Minh Đ, sinh ngày 17/8/2017, anh Phạm Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.

- Về án phí: Chị Hà Ngọc A phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

I. Về tố tụng: Chị Hà Ngọc A và anh Phạm Văn D đều có đơn đề nghị xin được vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo trình tự vắng mặt chị A và anh D.

II. Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị A và anh D được tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị A và anh D đều trình bày là vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp nhau, vợ chồng thường xảy ra va chạm cãi nhau, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Chị A xin ly hôn anh D đồng ý ly hôn. Xét thấy trên thực tế cuộc sống chung giữa chị A và anh D đã không còn tồn tại, tình yêu thương đối với nhau không còn, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy, áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận nguyện vọng xin ly hôn của chị A, xử cho chị A được ly hôn anh D.

[2] Về nuôi con chung: Chị A và anh D có 01 con chung. Ly hôn chị A có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung, anh D đồng ý. Cần giao cho chị A trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Hà Minh Đ, sinh ngày 17/8/2017, chị A không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[3] Về chia tài sản: Chị A và anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Tòa án không đặt ra giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Hà Ngọc A phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Hà Ngọc A được ly hôn anh Phạm Văn D.

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị Hà Ngọc A trực tiếp nuôi dưỡng con Phạm Hà Minh Đ, sinh ngày 17/8/2017. Anh Phạm Văn D không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Phạm Văn D có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng cho con được đặt ra giải quyết khi có yêu cầu.

3. Về chia tài sản: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Hà Ngọc A phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng chị Hà Ngọc A đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số 0000411 ngày 23 tháng 11 năm 2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí ly hôn sơ thẩm cho chị Hà Ngọc A.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Hà Ngọc A và anh Phạm Văn D có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hợp lệ./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 03/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về