Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình giữa chị M anh T số 90/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 90/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH GIỮA CHỊ M ANH T

Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 169/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2021/QĐXX - ST ngày 27/8/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số:49/2021/ QĐST- HNGĐ ngày 14/9/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số:58/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29/9/2021giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phan Thị M, sinh năm 1983 Đăng ký HKTT: Thôn L, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình Địa chỉ hiện ở: Số nhà 4x, tổ 6x, ngõ 1xx, đường Q, phường Tr, thành phố Th, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn L, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Chị M có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình thì nguyên đơn là chị Phan Thị M có yêu cầu khởi kiện và đơn xin xét xử vắng mặt như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Phạm Văn T do tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình vào ngày 25/9/2006 . Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình anh T ở Thôn L, xã A, huyện Q. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được 06 năm thì phát phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh T chơi bời lô đề, rượu chè và bạo lực gia đình. Mâu thuẫn trở nên trầm trọng vào tháng 12/2020 chị đã đưa hai con lên thành phố Th sinh sống, vợ chồng không ai quan tâm hỏi han đến nhau. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không mang lại hạnh phúc nên chị M đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Phạm Văn T.

Về con chung: Chị M trình bày, vợ chồng có 02 con chung là Phạm Tiến A, sinh ngày 18/4/2007 và Phạm Trung K, sinh ngày 04/11/2011. Ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao 02 con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh T phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, anh T và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Hiện tại chị không có thai nghén gì.

Lý do chị xin nuôi dưỡng 02 con chung do các cháu đang học tập ổn định tại xã V, thành phố Th, ngoài ra chị có công việc ổn định và thu nhập 12.000.000đ/01 tháng (lương chính, lương làm ngoài).

Về tài sản chung, nợ chung: Chị M trình bày, vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại bản tự khai và tại phiên tòa bị đơn là anh Phạm Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về điều kiện, hoàn cảnh, thời gian kết hôn như chị M trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình nhà anh ở Thôn L, xã A, huyện Q một thời gian sau đó vợ chồng chuyển về xã T, huyện V thuê nhà ở sinh sống. Vợ chồng tuy chuyển lên sinh sống ở xã T nhưng vẫn có hộ khẩu thường trú tại xã A, huyện Q. Quá trình chung sống vợ chồng đôi khi có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do mâu thuẫn về kinh tế gia đình ngoài ra vợ chồng không có mâu thuẫn gì khác. Từ cuối năm 2020 anh đi làm theo công trình nên phải ở lại chỗ làm không về sinh sống cùng chị M và các con được. Nay chị M có đơn xin ly hôn, anh thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên không muốn ly hôn chị M, trường hợp chị M cương quyết ly hôn anh cũng đồng ý ly hôn với chị M.

Về con chung: Anh T trình bày, vợ chồng có 02 con chung là Phạm Tiến A, sinh ngày 18/4/2007 và Phạm Trung K, sinh ngày 04/11/2011. Trường hợp vợ chồng ly hôn anh đề nghị Tòa án giao 02 con chung cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu chị M phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho anh. Chị M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung. Hiện anh đi làm điện nước theo công trình thu nhập hàng tháng 10.000.000đồng, điều kiện nhà cửa sinh hoạt cho con cái gia đình anh đều đảm bảo.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh T trình bày để vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản xác minh với bà Lương Thị H (là mẹ đẻ anh T), địa chỉ: Thôn L, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình, bà H trình bày: Việc kết hôn giữa chị Phan Thị M, anh Phạm Văn T như chị M trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 15 năm, bà được biết vợ chồng chị M, anh T có xích mích với nhau về tính cách, anh T có phong cách sống hết lòng vì bạn bè mà không chăm lo cho vợ con. Nay chị M xin ly hôn, bà đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng được đoàn tụ, trường hợp chị M cương quyết ly hôn đây là quyền của chị M nên bà đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật để giải quyết; Về con chung: Vợ chồng chị M, anh T có 02 con chung là Phạm Tiến A, sinh ngày 18/4/2007 và Phạm Trung K, sinh ngày 04/11/2011. Trường hợp vợ chồng ly hôn bà đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết; Về tài sản chung, nợ chung: Bà H không có ý kiến.

Bà H cũng trình bày thêm anh Phạm Văn T có vẫn đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn L, xã A, huyện Q. Hiện nay anh T đang đi làm trên thành phố Th, anh vẫn liên lạc về gia đình và khi gia đình có công việc anh vẫn trở về. Bà đã nhận các văn bản tố tụng mà Tòa án gửi cho anh T và đã thông báo đầy đủ cho anh biết việc chị M xin ly hôn anh T có nói với bà: “ Anh không làm đơn khởi kiện ly hôn, không bỏ vợ, bỏ con cho nên anh không lên Tòa án để làm việc”.

- Tại biên bản lấy lời khai của cháu Phạm Tiến A, sinh ngày 18/4/2007 và Phạm Trung K, sinh ngày 04/11/2011 đều thể hiện: Các cháu biết được việc mẹ đang làm đơn xin ly hôn với bố tại Tòa án, hai cháu không muốn bố mẹ phải ly hôn với nhau, trường hợp bố mẹ ly hôn cả hai cháu đều có nguyện vọng được ở cùng với mẹ là Phan Thị M.

- Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn có mặt tại phiên tòa nhưng chấp hành chưa tốt quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình giải quyết theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa chị Phan Thị M và anh Phạm Văn T thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn anh Phạm Văn T có địa chỉ cư trú tại xã An Ninh, huyện Quỳnh Phụ nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa và có đề nghị giải quyết vắng mặt, vì vậy Tòa án căn cứ vào Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về tình trạng hôn nhân, con chung của vợ chồng, vì vậy Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, quan hệ hôn nhân của chị M, anh T được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống. Chị M và các con đã lên thành phố Th sinh sống từ tháng 12/2020, vợ chồng không quan tâm hỏi han đến nhau. Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, biết được việc chị M xin ly hôn nhưng anh T không trực tiếp đến Tòa án tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và trình bày quan điểm về việc chị M ly hôn. Tại phiên Tòa lần thứ nhất anh T có lên Tòa án trình bày quan điểm vẫn còn tình cảm với chị M nên không muốn ly hôn. Tòa án đã hoãn phiên tòa lần thứ nhất do nguyên đơn vắng mặt và để cho anh có thời gian để cùng chị M tìm lại tiếng nói chung nhưng không có kết quả. Tại bản tự khai anh T cũng thể hiện: Chị M vẫn cương quyết ly hôn anh cũng đồng ý. Do đó, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị M được ly hôn anh T là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Phạm Tiến A, sinh ngày 18/4/2007 và Phạm Trung K, sinh ngày 04/11/2011. Cả chị M, anh T đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, nguyện vọng nuôi con chung của anh chị là chính đáng, tuy nhiên hiện tại cả hai con chung đang học tập ổn định tại xã V, thành phố Th cả hai cháu đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Chị M là giáo viên và có thu nhập ổn định nên việc chăm sóc nuôi dạy các cháu sẽ tốt hơn. Đối với anh T có nguyện vọng xin nuôi dưỡng hai con chung, tuy nhiên anh không xuất trình cho Tòa án về thu nhập của mình ngoài ra anh T đi làm theo công trình nên việc nuôi dưỡng chăm sóc hai cháu sẽ khó khăn.Do đó, để đảm bảo sự ổn định của con chung, cần giao con chung Phạm Tiến A và Phạm Trung K cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng. Chị M không yêu cầu anh T phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, anh T có quyền nghĩa vụ thăm nom con chung là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị M, anh T đều không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Phan Thị M phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147; Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phan Thị M được ly hôn anh Phạm Văn T.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho chị Phan Thị M trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung Phạm Tiến A, sinh ngày 18/4/2007 và Phạm Trung K, sinh ngày 04/11/2011 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi theo quy định của pháp luật. Chị M không yêu cầu anh T phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung, anh Phạm Văn T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Chị M, anh T có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu thay đổi về việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra để giải quyết.

4. Về án phí: Chị Phan Thị M phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được đối trừ với tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0004454 ngày 26/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Chị M đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.

Anh Phạm Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (30/9/2021), chị Phan Thị M có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình giữa chị M anh T số 90/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:90/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về