Bản án về tranh chấp dân sự hợp đồng vay tài sản số 08/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 08/2022/DS-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TRANH CHẤP DÂN SỰ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 24/2021/TLST-DS ngày 02 tháng 4 năm 2021 “Tranh chấp dân sự về hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST-DS ngày 28 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Tố Tr.., sinh năm 1982, nơi cư trú: Tổ 8, ấp V, xã V, huyện T, tỉnh A, vắng mặt;

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Ngô Văn S.., sinh năm 1972, nơi cư trú: đường Nguyễn Văn Cừ, tổ 32, khóm X , thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (theo giấy ủy quyền công chứng ngày 14/02/2022 tại Văn phòng Công chứng Tri Tôn. Địa chỉ: Số 07, đường Lê Thành Tôn, khóm X , thị trấn Tri Tôn, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), có mặt.

- Bị đơn: Bà Hồ Thị Nh.., sinh năm 1967, nơi cư trú: khóm T, thị trấn N, huyện T, tỉnh A, vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị A.., sinh năm 1982, nơi cư trú: Số 29, khóm T, thị trấn N, huyện T, tỉnh A, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện của nguyên đơn ghi ngày 09 tháng 3 năm 2021 và tại phiên tòa hôm nay đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Ngô Văn S.. trình bày: Vào ngày 27/8/2019 bà Hồ Thị Nh.. có vay của bà Lê Thị Tố Tr.. số tiền 550.000.000 đồng để thực hiện đáo hạn Ngân hàng tại Ngân hàng nông nghiệp và pháp triển nông thôn Việt Nam - Chi nhánh Chi Lăng - An Giang theo hợp đồng số 157/2019/HĐTD - TT và cam kết khi Ngân hàng giải ngân hoặc đến ngày 02/9/2019 sẽ hoàn trả lại cho bà Tr.. số tiền vốn 550.000.000 đồng và tiền lãi suất.

Chiều ngày 27/8/2019, bà Tr.. nộp tất toán số tiền hồ sơ vay của bà Hồ Thị Nh.. là 550.000.000 đồng, mục đích để bà Nh.. thực hiện đáo hạn vay lại. Tuy nhiên sau khi ra về thì bà Nh.. mượn lại phiếu nộp tiền để rút lại số tiền 550.000.000 đồng từ Ngân hàng, sử dụng vào mục đích khác mà không vay đáo hạn như đã nói.

Sau nhiều lần hứa hoàn trả lại số tiền trên thì đến nay bà Nh.. vẫn chưa thực hiện. Bà Tr.. yêu cầu bà Hồ Thị Nh.. trả lại số tiền 550.000.000 đồng và tính lãi suất theo quy định của Nhà nước là 10%/năm kể từ ngày 03/9/2019.

- Về tài liệu chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu: Tờ thỏa thuận v/v mượn tiền và cam kết trả tiền ghi ngày 27 tháng 8 năm 2019; Giấy nhận tiền ghi ngày 27/8/2019.

* Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bị đơn bà Hồ Thị Nh.., đều vắng mặt. Tuy nhiên bà Nh.. có gửi bản tường trình cùng khai với ông Nguyễn Văn S.. không ghi ngày, tháng 5 năm 2021 ký tên với ông Nguyễn Văn S.. như sau: Vào ngày 17/08/2019 thì bà Hồ Thị Nh.. có mượn của cô Tr.. số tiền là 550.000.000 đồng đến ngày 23/8/2019, tổng cộng 06 ngày lãi số tiền là 33.000.000 đồng (5.500.000 đồng/ngày), thì bà Nh.. cùng với cô Lương Thị H.. đã đến nhà Tr.. và đã trả đủ cả vốn lẫn lãi cho cô Tr.. với số tiền 583.000.000 đồng. Gia đình có yêu cầu cô Tr.. đưa lại giấy nhận nợ số tiền trên, cô Tr.. có trả lời là giấy nhận nợ đang ở chỗ của chủ tiền nào đó giữ, để cô lấy xé bỏ cho rồi sự việc im hẳn cho đến nay, gia đình tôi nghỉ là cô Tr.. đã xé bỏ rồi nên cũng không nhắc tới, nên bà không còn nợ gì cô Tr.. nữa.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa: Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tuy nhiên, bị đơn thực hiện chưa đầy đủ nghĩa vụ theo triệu tập của Tòa án.

- Về việc giải quyết vụ án:

+ Về hợp đồng vay: Vào ngày 27/8/2019, xuất phát chổ quen từ chổ bà Nh.. có nhu cầu vay tiền đáo hạn nợ Ngân hàng, nên bà Tr.. đã cho bà Nh.. vay số tiền 550.000.000 đồng. Các bên có lập giấy nhận tiền và tờ thỏa thuận mượn tiền và cam kết trả tiền ghi cùng ngày 27/8/2019 do bà Nh.. ký nhận và có sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị A... Như vậy, hợp đồng này được các bên xác lập trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm, nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn đều vắng mặt, nhưng có gửi bản tường trình ghi tháng 5 năm 2021 bị đơn xác định có vay số tiền của nguyên đơn 550.000.000 đồng nhưng đã trả xong và không còn nợ. Vì vậy, bị đơn phải có nghĩa vụ chứng minh cho lời khai việc mình đã trả số tiền cho này cho nguyên đơn.

Tại thông báo về việc giao nộp, tài liệu chứng cứ số 04/TB-TLCC ngày 09/02/2022 của Tòa án yêu cầu bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp chứng cứ để chứng minh đã trả số tiền gồm các tài liệu chứng cứ bằng văn bản hoặc người chứng kiến, biết được sự việc nhưng bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan không cung cấp tài liệu chứng cứ theo thời gian quy định.

Do bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ, nên nguyên đơn yêu cầu là có căn cứ.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 466, 468, 470 của Bộ luật dân sự năm 2015, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Về tài liệu, chứng cứ Tòa án thu thập được: Không.

Tại phiên tòa hôm nay người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày vẫn giữ nguyên ý kiến;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền: Bị đơn có nơi cư trú tại khóm T, thị trấn N, huyện T theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên.

- Về sự vắng mặt: Bị đơn bà Hồ Thị Nh..; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị A.. đã được triệu tập hợp lệ có mặt tại phiên tòa lần thứ hai, nhưng vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

- Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền vay, thuộc trường hợp tranh chấp về hợp đồng dân sự theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Do đó, xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.

[2] Về nội dung:

[2.1] Xét về hợp đồng vay: Xuất phát từ việc bị đơn có nhu cầu vay tiền để đáo nợ ngân hàng, nên vào ngày 27/8/2019 bà Lê Thị Tố Tr.. có cho bà Hồ Thị Nh.. vay số tiền 550.000.000 đồng, không có lãi, thời hạn vay từ ngày 27/8/2019 đến ngày 02/9/2019, khi đưa tiền nộp vào tài khoản của bà Hồ Thị Nh.. và có lập tờ thỏa thuận mượn tiền và cam kết trả tiền ghi ngày 27/8/2019 và giấy nhận tiền ghi ngày 27/8/2019 do bà Hồ Thị Nh.. ký tên, lăn tay và có sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị A... Như vậy, xét về hợp đồng vay tiền giữa bà Tr.. và bà Nh.. được giao kết trên cơ sở tự nguyện; nội dung không trái pháp luật, đạo đức xã hội; các bên đều có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên.

Theo nguyên đơn trình bày từ khi vay đến nay bị đơn chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận, trong quá rình giải quyết vụ án bị đơn không có mặt theo triệu tập của Tòa án. Do đó không tiến hành, ghi lời khai và hòa giải được, tuy nhiên từ lời trình bày của bị đơn, chứng cứ là tờ thỏa thuận mượn tiền và cam kết trả tiền ghi ngày 27/8/2019 và giấy nhận tiền ghi ngày 27/8/2019 có nội dung:

“Nội dung thỏa thuận như sau:

Bên A thống nhất cho bên B mượn số tiền 550.000.000 đồng (bằng chữ: năm trăm năm mươi triệu đồng) Mục đích mượn tiền: Đáo hạn Ngân hàng theo HĐTD số 157/2019/HĐTD-TT ngày 23 tháng 5 năm 2019 Thời hạn mượn tiền kể từ ngày 27/8/2019 đến ngày 02/9/2019 Bên B sẽ hoàn trả đủ số tiền đã mượn...” và có sự chứng kiến của bà Nguyễn Thị A...

Chứng cứ này cũng phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị A.. tại lời khai ngày 17/6/2019 có khai: “ngày 17/8/2019 tôi có chở mẹ tôi đến gặp bà Lê Thị Tố Tr.. để mượn của bà Tr.. số tiền 550.000.000 đồng, tại đây mẹ tôi nhận đủ tiền 550.000.000 đồng và có lập tờ thỏa thuận nhưng không nhớ rõ ngày tháng, tôi và mẹ tôi cùng ký tên và lăn tay và trong thời gian 03 ngày kể từ ngày nhận phải hoàn trả lại số tiền này. ......khi trả tiền tôi chở bà Hương đến giao tiền trực tiếp cho bà Tr.. tại nhà bà Tr.. đủ số tiền 583.000.000 đồng, nhưng không có làm biên nhận với nhau...”. Như vậy, có cơ sở xác định bị đơn vay và nhận số tiền 550.000.000 đồng của nguyên đơn là có thật. Vì vậy, bị đơn có nghĩa vụ chứng minh cho lời khai việc mình đã trả số tiền cho này cho nguyên đơn.

Tại tờ tường trình không ghi ngày, tháng 5 năm 2021 do bị đơn bà Hồ Thị Nh.. cung cấp xác nhận có vay số tiền 550.000.000 đồng của bà Tr.., nhưng bị đơn trình bày đã đến nhà bà Tr.. trả đủ cả vốn và lãi là 583.000.000 đồng. Đồng thời Tòa án đã ban hành thông báo số 04/TB-TLCC ngày 09/02/2022 cho bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan cung cấp chứng cứ để chứng minh đã trả số tiền vốn 550.000.000 đồng trong thời hạn 07 ngày tuy nhiên bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không cung cấp và cũng không có mặt theo triệu tập của Tòa án được. Do đó, không có cơ sở xác định bị đơn đã trả số tiền cho nguyên đơn.

Quá trình thực hiện nghĩa vụ bà Nh.. không trả nợ như thỏa thuận, nên có nghĩa vụ trả số nợ vay và lãi suất theo quy định. Từ lời trình bày, chứng cứ có cơ sở xác định giao dịch này thuộc hợp đồng vay có kỳ hạn và không có lãi theo quy định tại khoản 1 Điều 470 BLDS.

[2.2] Về lãi suất: Mức lãi suất nguyên đơn yêu cầu theo quy định pháp luật, do đó áp dụng lãi suất quy định tại khoản 4 Điều 466 và khoản 2 Điều 468 BLDS là phù hợp, cụ thể như sau:

- Từ ngày 27/8/2019 đến ngày 30/3/2022: 550.000.000 đồng x 940 ngày x 10%/năm (0,83%/tháng) = 143.036.000 đồng.

[2.3] Về nghĩa vụ: Do bị đơn không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán như đã thỏa thuận, nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tiền vay còn nợ và lãi suất là có căn cứ. Do đó bị đơn có nghĩa vụ trả vốn, lãi là 693.036.000 đồng.

Theo ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ. Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận, nên bị đơn phải chịu án phí có giá ngạch theo quy định pháp luật, Nguyên đơn không phải chịu án phí, được hoàn lại tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 280, 466, 468 và khoản 1 Điều 470 của Bộ luật Dân sự;

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Tố Tr...

Buộc bà Hồ Thị Nh.. phải trả cho bà Lê Thị Tố Tr.. số tiền vốn vay là 550.000.000đ (Năm trăm năm mươi triệu đồng) và tiền lãi là 143.036.000đ (Một trăm bốn mươi ba triệu, không trăm ba mươi sáu ngàn đồng), tổng cộng 693.036.000đ (Sáu trăm chín mươi ba triệu, không trăm ba mươi sáu ngàn đồng).

- Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi kể từ ngày tiếp theo ngày xét xử của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hồ Thị Nh.. phải chịu 31.721.000đ (Ba mươi mốt triệu, bảy trăm hai mươi mốt ngàn đồng) tiền án phí.

Bà Lê Thị Tố Tr.. không phải chịu án phí, được hoàn lại tiền tạm ứng án phí 13.000.000đ (Mười ba triệu đồng) đã nộp theo phiếu thu số TU/2019/0006356 ngày 01 tháng 4 năm 2021 của Cơ quan Thi hành án dân sự huyện Tịnh Biên.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp dân sự hợp đồng vay tài sản số 08/2022/DS-ST

Số hiệu:08/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về