Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 68/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 68/2020/HS-ST NGÀY 19/06/2020 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 19/6/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh G xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2020/HSST ngày 08 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2020/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

PT. Sinh năm 2000 tại G; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Làng Del, xã I, huyện IG, tỉnh G; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Sinh viên; dân tộc: Jarai; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Rơ Châm H, sinh năm 1978 và bà Puih T, sinh năm 1982 hiện trú Làng D, xã I, huyện IG, tỉnh G; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không. Ngày 27/10/2019, điều khiển xe mô tô gây tai nạn giao thông làm chết 01 người. Ngày 30/12/2019, bị khởi tố và bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt.

Những người tham gia tố tụng:

* Những người đại diện hợp pháp của người bị hại:

- Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1959. Vắng mặt.

- Anh H Anh M, sinh năm 1986. Vắng mặt.

- Chị H Thị T, sinh năm 1987. Vắng mặt.

- Chị H Thị Thu H, sinh ăm 1995. Vắng mặt.

Cùng địa chỉ: Thôn 1, xã D, thành phố P, tỉnh G.

- Chị H Thị PTg N, sinh năm 1984; địa chỉ: Tổ 9, thị trấn C, huyện C, tỉnh G. Vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh RMH, sinh năm 2001; địa chỉ: Làng Ôrêl, xã Ia Grăng, huyện IG, tỉnh G. Có mặt.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1993; địa chỉ: Tổ 10 phường Yên Thế, thành phố P, tỉnh G. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

PT có giấy phép lái xe hạng A1, khoảng 14 giờ ngày 27/10/2019, PT cùng với RMH cùng uống rượu với nhau ở xã ID, huyện IG, tỉnh G, đến 17 giờ cùng ngày thì nghỉ. Sau đó, PT điều khiển xe mô tô biển số 81B2-xxxxx, số khung: 1010JY061321, số máy: G3D4E829059, dung tích xi lanh 149cm3 chở RMH lưu thông trên đường TND, theo hướng từ trung tâm thành phố P đi xã D để về Trường Cao đẳng nghề G với tốc độ khoảng 70 đến 80km/h. Khi đi đến trước nhà bà Bùi Thị S, thuộc thôn 01, xã D, thành P, PT phát hiện phía trước khoảng 15 mét có xe mô tô biển số 81 B1-xxxxx do ông H Xuân L điều khiển chở cháu Đàm H Q (sinh năm 2013 là cháu của ông L) chạy cùng chiều phía trước. Do chạy tốc độ nhanh, không xử lý kịp nên xe mô tô do PT điều khiển tông vào đuôi xe mô tô do ông L, làm 02 cả xe mô tô ngã xuống đường. Hậu quả, ông L, cháu Q, RMH và PT bị thương nên được người dân đưa đến Bệnh viện đa khoa tỉnh G cấp cứu. Đến 00 giờ ngày 28/10/2019, thì ông L bị chết. Ngày 30/10/2019, cháu Đàm H Q ra viện; ngày 01/11/2019, RMH ra viện.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 27/10/2019, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 81B2-xxxxx chở RMH lưu thông trên đường TND theo hướng từ Trung tâm thành phố P đi Ủy ban nhân dân xã D, thành phố P. Khi đi đến trước nhà bà Bùi Thị S thuộc thôn 01, xã D, thành phố P, do không làm chủ tốc độ chạy khoảng 70 đến 80km/h nên đã tông vào đuôi xe mô tô biển số 81B1-xxxxx do ông H Xuân L điều khiển chở cháu Đàm H Q đi cùng chiều phía trước. Hậu quả làm cả 04 người trên 02 xe ngã xuống đường, 03 người bị thương và ông L chết. Sau tai nạn, bị cáo đã bồi thường cho gia đình ông L 100.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 61/CTr-VKS ngày 07 tháng 4 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G đã truy tố PT về tội: “Vi phạm các quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo Khoản 1 Điều 260 của Bộ luật hình sự năm 2015. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Áp dụng Khoản 1 Điều 260; Điểm b và s Khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 50 và Điều 54 Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo PT từ 06 năm đến 09 tháng tù.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 150 ngày 27/11/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh G, kết luận nguyên nhân chết H Xuân L: Chấn thương sọ não; nứt vỡ sọ vùng đỉnh chẩm; đa chấn thương do tai nạn giao thông.

* Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định:

Hiện trường vụ tai nạn giao thông xảy ra trên đường TND, trước nhà bà Bùi Thị S ở thôn 01, xã D, thành phố P, tỉnh G. Đường được trải bê tông nhựa, thẳng, phẳng, không có biển báo giao thông. Lòng đường rộng 11 mét; không có vạch kẻ đường; áp dụng lưu thông hai chiều. Trụ điện số LT105 làm điểm cố định; lấy mép đường bên phải hướng từ trung tâm thành phố P đi vào Ủy ban nhân dân xã D làm chuẩn, đo xác định:

Vết cà trên mặt đường (đánh số 01) có chiều hướng từ Trung tâm thành phố P đi vào Ủy ban nhân dân xã D, diện (17x0,2) mét; đầu vết cà cách mép đường làm chuẩn 2,4 mét; cuối vết cà cách mép đường làm chuẩn 1,7 mét. Tiếp giáp cuối vết cà (01) phát hiện vết cà thứ 02 (đánh số 02), diện (12,2x0,2) mét, có chiều hướng từ Trung tâm thành phố P đi vào Ủy ban nhân dân xã D; đầu vết cà cách mép đường làm chuẩn 1,7 mét; cuối vết cà trùng với tâm trục bánh sau xe mô tô biển số 81B1-xxxxx và nằm trên lề đường phải, cách mép đường làm chuẩn 2,95 mét.

Cuối vết cà (01) phát hiện vết cà thứ 03 (đánh số 03), diện (14,2x0,02) mét, có chiều hướng từ Trung tâm thành phố P đi vào Ủy ban nhân dân xã D; đầu vết cà cách mép đường làm chuẩn 1,7 mét; cuối vết cà trùng với tâm trục bánh sau xe mô tô biển số 81B2-xxxxx và nằm trên mép đường làm chuẩn. Xe mô tô biển số 81B1-xxxxx nằm ngã nghiêng bên phải trên lề đường phải; đầu xe hướng về đường liên thôn; đuôi xe hướng ra mép đường làm chuẩn. Xe mô tô biển số 81B2- xxxxx nằm ngã nghiêng bên trái, đầu xe chếch về hướng Ủy ban nhân dân xã D, đuôi xe chếch ra lòng đường; cách tâm trục bánh sau 3,5 mét hướng về Ủy ban nhân dân xã D phát hiện vết màu nâu (nghi máu), diện (0,6x0,4) mét, cách mép đường làm chuẩn 0,6 mét. Tâm trục bánh sau xe mô tô biển số 81B1-xxxxx cách điểm cố định 11,2 mét.

* Qua khám nghiệm dấu vết trên các phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông, thể hiện:

Đối với xe mô tô biển số 81B2-xxxxx: Tại vị trí ốp nhựa bảo vệ đèn chiếu sáng, ốp nhựa bảo vệ đầu xe phía trước bên trái có vết xây xát mài mòn nhựa, diện (21x11)cm, chiều hướng từ trước ra sau. Tại vị trí mặt trước mặt nạ bảo vệ đầu xe có vết trầy xước nhựa, dính nhiều chất mà trắng diện (32x30)cm, chiều hướng không xác định, tâm vết cách mặt đất 80cm. Tại bên trong rãnh hút gió của mặt nạ bảo vệ đầu xe có 01 mãnh vỡ nhựa màu đỏ diện (4x25)cm nghi là mảnh vỡ của ốp nhựa bảo vệ đèn Stop phía sau của xe mô tô biển số 81B1-xxxxx. Ốp nhựa bảo vệ đèn xi nhan phía trước bên trái có vết trầy xước nhựa diện (18x4)cm, chiều hướng không xác định. Ốp đèn xin nhan phía trước bên phải có vết vỡ nhựa diện (8x4)cm. Dè chắn bùn phí trước bị cong vênh, xô lệch áp sát vào lốp trước, vỡ nhựa; mặt trước có dính chất mà nâu đen, diện (27x13)cm. Phuộc nhún trước bên phải, bên trái bị cong vênh, xô lệch từ trước ra sau khỏi vị trí cố định 03cm. Vành bánh trước bên trái bị trầy xước kim loại, dính chất mà nâu đen, diện (28x1)cm. Ốp nhựa chắn gió phía trước bên phải bị bung rời khỏi vị trí lắp ráp cố định, hở 06cm. Đầu cần số phía trước bị cong vênh áp sát vào thân máy, lệch khỏi vị trí cố định 2,5cm. Gác để chân phía trước bên trái bị cong vênh từ trước ra sau so với vị trí cố định 4cm. Gác để chân phía sau bên trái, mặt trong bị trầy xước kim loại. Thành ốp nhựa phía sau bên trái có vết trầy xước nhựa, vỡ nhựa diện (35x12)cm chiều hướng từ trước ra sau. Tay côn bị cong vênh, xô lệch khỏi vị trí cố định 5cm. Xe mô tô biển số 81B2- xxxxx có dung tích xi lanh: 149cm3.

Đối với xe mô tô biển số 81B1-xxxxx: Tại vị trí ốp nhựa bảo vệ đèn chiếu sáng, ốp nhựa bảo vệ đầu xe phía trước bị trầy xước nhựa, diện (15x6)cm, chiều hướng từ trái qua phải, trước ra sau. Đầu tay nắm điều khiển phía trước bên trái có vết trầy xước kim loại diện (5x1,5)cm. Mặt trước bửng chắn gió phía trước bị mài mòn nhựa diện (50x12)cm, chiều hướng từ trước ra sau. Gác để chấn phía trước bên trái bị cong vênh hướng từ trước ra sau. Cụm đèn Stop, đèn xi nhan trái, phải bị vỡ hoàn toàn. ỐP chắn bùn đuôi xe, biển số đều bị gãy, vỡ bung khỏi vị trí cố định; tâm vết cách mặt đất 80cm. Lốp, xăm bánh sau bị vỡ diện (14x3)cm.

Tại Bản kết luận định giá số 06 ngày 20/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố P, kết luận: Chiếc xe mô tô biển số 81B1- xxxxx bị hư hỏng do tai nạn giao thông gây ra có trị giá thiệt hại là 800.000 đồng Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về Các kết quả khám nghiệm hiện trường và các dấu vết trên phương tiện giao thông có liên quan, Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 150 ngày 27/11/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh G, Bản kết luận định giá số 06 ngày 20/01/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố P.

Ý kiến của người tham gia tố tụng: Lời khai tại hồ sơ:

- Những người đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Nguyễn Thị H, anh H Anh M, chị H Thị T, chị H Thị Thu H và chị H Thị PTg N: Cháu H Đình Q bị xây sát nhẹ, gia đình không đề nghị giám định. Gia đình đã nhận 100.000.000 đồng tiền bồi thường từ bị cáo, và nhận lại xe mô tô do H Xuân L điều khiển và không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh RMH: Ngày 27/10/2019, PT điều khiển xe mô tô biển số 81B2-xxxxx chở anh lưu thông trên đường TND theo hướng từ Trung tâm thành phố P đi Ủy ban nhân dân xã D, thành phố P. Khi đi đến trước nhà bà Bùi Thị S thuộc thôn 01, xã D, thành phố P, do chạy nhanh nên đã tông vào đuôi xe mô tô đi cùng chiều, cả anh và PT ngã xuống đường. Anh có bị xây sát nhẹ, từ chối giám định và không có yêu cầu gì về dân sự.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Đức H: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 27/10/2019, khi đi anh đang đứng trước cửa nhà bà Bùi Thị S thuộc thôn 01, xã D, thành phố P, thì thấy ông già chở 01 cháu bé chạy cùng chiều hướng Trung tâm thành phố P đi Ủy ban nhân dân xã D, thành phố P thì có 02 thanh niên xe mô tô Yamaha Exciter màu đen chạy sau cùng chiều đâm vào đuôi xe. Cả bốn người trên 02 xe đều ngã xuống đường bị thương và được đưa đi cấp cứu .

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo biết lỗi, xin được hưởng án treo để tiếp tục theo học chương trình tại Trường Cao đẳng nghề G.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ như Biên bản khám nghiệm hiện trường thể hiện: bị cáo điều khiển xe mô tô tham gia giao thông không tuân thủ pháp luật về giao thông đường bộ đã gây ra tai nạn giao thông với hậu quả nghiêm trọng làm chết một người. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự. Việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh G đối với bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] T trạng tai nạn giao thông đang diễn biến phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt đối với đời sống xã hội. Nhà nước ta đang đẩy mạnh công tác đấu tranh để giảm thiểu T trạng này. Phương tiện xe mô tô khi tham gia giao thông là nguồn nguy hiểm cao độ, vì vậy đòi hỏi mọi người khi tham gia giao thông đểu phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về giao thông đường bộ nhằm đảm bảo an toàn về tính mạng, sức khỏe cho người điều khiển và người xung quanh. Bị cáo là người nhận thức rõ về điều này nhưng khi điều khiển xe tham gia giao thông không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật: không đảm bảo nguyên tắc an toàn giao thông, không làm chủ tốc độ, gây tai nạn làm chết 01 người. Xét toàn bộ các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa: Biên bản khám nghiệm xe, biên bản hiện trường thì thấy lỗi hòan tòan trong vụ tai nạn giao thông thuộc về bị cáo. hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, gây thiệt hại cho tính mạng của người khác, bị cáo phải chịu trách nhiệm tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi.

[4] Xét quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi xảy ra tai nạn đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại; người đại diện hợp pháp đã có đơn xin bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo là các T tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b và s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Bị cáo có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng, ổn định không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục đối với các bị cáo.

[5] Về dân sự: Sau khi tai nạn xảy ra, gia đình bị cáo đã bồi thường cho gia đình người bị hại số tiền là 100.000.000 đồng. Đại diện gia đình người bị hại và những người liên quan không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo PT phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” .

2/ Về điều luật áp dụng:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 260; Điều 38; Điều 50; Điểm b, s và Khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

- Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016 về án phí, lệ phí Tòa án;

3/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo PT 01 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 02 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/6/2020).

Giao bị cáo PT cho Ủy ban nhân dân xã xã I, huyện IG, tỉnh G giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

4/ Các vấn đề khác:

- Về án phí: Buộc bị cáo PT phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân Tỉnh G xét xử phúc thẩm. Những người đại diện hợp pháp cho người bị hại có quyền kháng cáo kể từ ngày bản án được tống đạt.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ số 68/2020/HS-ST

Số hiệu:68/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về