Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 15/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 06/07/2021 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 06 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 11/2021/HSST ngày 21 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

1. Huỳnh Thanh N.., sinh ngày 24/10/1995, nơi sinh tại huyện T, tỉnh A; nơi cư trú: Tổ 6, ấp T, xã A, huyện T, tỉnh A; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh, con ông Huỳnh Văn H.., sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị T.., sinh năm 1967; bị cáo là người thứ hai, có 03 anh chị em;

Tiền án; Tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giam từ ngày 01/01/2021 đến nay tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện B, bị cáo có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Thanh N..: Ông Trần Ngọc P - Luật sư, Văn phòng Luật sư Trần Ngọc P thuộc Đoàn Luật sư tỉnh A, vắng mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Huỳnh Văn H.., sinh năm 1968, nơi cư trú: tổ 6, ấp T, xã A, huyện T, tỉnh A, có mặt.

2. Bà Nguyễn Thị T.., sinh năm 1967, nơi cư trú: Tổ 6, ấp T, xã A, huyện T, tỉnh A, có mặt.

3. Bà Huỳnh Thị Cẩm D.., sinh năm 1990, nơi cư trú: Tổ 9, ấp T, xã A, huyện T, tỉnh A, có mặt.

4. Ông Châu Minh T.., sinh năm 1968, nơi cư trú: Cơ sở Điều trị cai nghiệm bắt buộc ma túy tỉnh A tại xã Lương An Trà, huyện Tri Tôn, tỉnh A, vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Triệu P.., sinh năm 1986, vắng mặt;

2. Ông Võ Văn D.., sinh năm 1978, vắng mặt;

3. Bà Lê Thị U.., sinh năm 1964, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ ngày 01/01/2021, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh A phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, ma túy – Công an huyện B, Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế B, Tổ công các số 10 Liên ngành Công an tỉnh A (chốt tại xã Lạc Quới, huyện Tri Tôn) và Công an xã An Nông, huyện B tổ chức tuần tra bằng phương tiện ca nô trên kênh Vĩnh Tế, hướng Lạc Quới, huyện Tri Tôn đến xã An Nông, huyện B. Khi đến khu vực tổ 9, ấp T, xã A, huyện B phát hiện Huỳnh Thanh N.. và Võ Văn Nh.. đang điều khiển vỏ lãi (loại Composite) hướng xã An Nông đến xã Lạc Quới có biểu hiện nghi vấn, nên lực lượng ra tín hiệu dừng phương tiện thì Võ Văn Nh.. và Huỳnh Thanh N.. ôm 01 bọc nylon màu đen nhảy xuống sông, lực lượng đã tiến hành bắt giữ được Huỳnh Thanh N.. cùng bọc nylon. Riêng Võ Văn Nh.. đã lẫn trốn.

Qua kiểm tra, phát hiện bên trong có 01 bọc nylon màu đen và 01 bọc nylon màu xanh có chứa cành, lá, hoa, quả của cây thảo mộc và Huỳnh Thanh N.. khai nhận là cần sa, nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nhân và thu giữ vật chứng.

Quá trình điều tra Huỳnh Thanh N.. khai nhận về diễn biến hành vi phạm tội như sau: Khoảng 22 giờ ngày 31/12/2020 được Huỳnh Thanh S.. thuê cùng với Võ Văn Nh.. điều khiển vỏ lãi đến khu vực cột mốc biên giới Việt Nam – Campuchia gặp 01 người đàn ông dân tộc Khmer tên Ron (không rõ họ, địa chỉ) nhận cần sa mang về Sang sẽ trả tiền công. Sau khi nhận được cần sa Huỳnh Thanh N.. điều khiển vỏ lãi chở Võ Văn Nh.. đến khu vực tổ 9, ấp T, xã A, huyện T thị bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ.

Ngày 08/01/2021, Huỳnh Thanh N.. bị khởi tố, điều tra.

* Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) thùng giấy được niêm phong (vụ 02/KLGT-PC09 (MT) ngày 06/01/2021 có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện T, tỉnh A, có chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K.., Nguyễn Trung S... Bên trong còn mẫu vật sau khi đã giám định, khối lượng 10,48kg;

- 01 (một) chiếc võ lãi Composite, dài 7,9 m, cao 0,4 m, ngang 0,8m; 01 máy đặt ngoài hiệu Hinota; 01 cân bàn điện tử màu xanh, đều đã qua sử dụng.

Bản kết luận giám định số 02/KLGT-PC09 (MT) ngày 06/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh A kết luận:

- Một thùng giấy carton được niêm phong có đóng dấu màu đỏ của Công an xã An Nông, huyện B, có chữ ký ghi tên Nguyễn Văn Vũ, Nguyễn Triệu P.., Huỳnh Thanh N... Bên trong có 01 bọc nilon màu đen và 01 bọc nilon màu xanh đều chứa cành, lá, hoa, quả thảo mộc khô, khối lượng 10,5 kg (kí hiệu M).

Mẫu M gửi đến giám định là ma túy, loại: Cần Sa, có khối lượng 10,5 kg (mười phẩy năm kílôgam).

Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKSTB.HS ngày 20 tháng 5 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Huỳnh Thanh N.. về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt Bộ luật hình sự).

Tại Cơ quan điều tra, - Bị cáo Huỳnh Thanh N.. khai nhận hành vi như đã nêu.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng khẳng định tình tiết vụ án đúng như bị cáo khai nhận.

Tại phiên tòa, - Bị cáo Huỳnh Thanh N.. khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng nêu. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Huỳnh Văn H.., bà Nguyễn Thị T.., bà Huỳnh Thị Cẩm D.. không có ý kiến tranh luận.

- Kiểm sát viên, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện B phát biểu lời luận tội vẫn giữ nguyên cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 2 Điều 250, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 BLHS năm 2015.

Về Tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh N.. phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thanh N.. từ 07 năm đến 08 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 01/01/2021.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Không áp dụng, do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Biện pháp tư pháp: Về xử lý vật chứng đề nghị áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 BLTTHS năm 2015; Điều 228 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) thùng giấy được niêm phong (vụ 02/KLGT-PC09 (MT) ngày 06/01/2021 có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện T, tỉnh A, có chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K, Nguyễn Trung S. Bên trong còn mẫu vật sau khi đã giám định là ma túy, loại: cần sa (lá, hoa, quả, cành thảo mộc khô), khối lượng 10,48kg;

- Thông báo công khai 01 năm để xác định chủ sở hữu, sau 01 năm không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ nhà nước phương tiện sử dụng vào việc phạm tội: 01 (một) chiếc võ lãi Composite, dài 7,9 m, cao 0,4 m, ngang 0,8m; 01 máy đặt ngoài hiệu Hinota; 01 cân bàn điện tử màu xanh, đều đã qua sử dụng.

Vấn đề khác:

- Đối với người đàn ông tên R.., do N.. khai không biết họ, địa chỉ cụ thể;

do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ hành vi xử lý sau.

- Ngoài lần phạm tội bị phát hiện bắt quả tang, Huỳnh Thanh N.. khai nhận còn nhiều lần cùng Võ Văn Nh.. vận chuyển cần sa cho Huỳnh Thanh S... Hiện Sang và Nhân không có mặt ở địa phương, ngoài lời khai của Nhân không có chứng cứ khác; Đối với việc Huỳnh Thanh N.. có hành vi qua lại biên giới Việt Nam – Campuchia trái phép, nhưng chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B không truy cứu trách nhiệm đới với những lần này, tiếp tục xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau; Đối với hành vi Huỳnh Thanh S.. và Võ Văn Nh.., Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện B tách ra, tiếp tục điều tra, xử lý sau là có căn cứ.

- Đối với Châu Minh T.. cũng khai nhận có vận chuyển cần sa thuê cho Huỳnh Thanh S.. 01 lần, được trả tiền thuê là 500.000 đồng, ngoài lời khai của Tuấn thì không có chứng cứ khác, nên sẽ điều tra làm rõ và xử lý sau.

- Đối với Huỳnh Văn H.., Nguyễn Thị T.., Huỳnh Thị Cẩm D.. khi nghe nói Huỳnh Thanh S.. kêu Huỳnh Thanh N.. cùng Võ Văn Nh.. vận chuyển cần sa và biết việc vận chuyển là vi phạm pháp luật, đã có tác động khuyên ngăn và việc Huỳnh Thanh S.., Huỳnh Thanh N.., Võ Văn Nh.. có vận chuyển cần sa hay không thì không biết rõ. Vì vậy, không khởi tố, xử lý H.., T.. và D.. về hành vi không “tố giác tội phạm”.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

- Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng và hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Người bào chữa cho bị cáo là Luật sư Trần Ngọc P có đơn đề nghị xin hoãn phiên tòa. Tuy nhiên tại phiên tòa, bị cáo có ý kiến và có đơn đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vắng mặt người bào chữa; đối với những người làm chứng được triệu tập nhưng vắng mặt, trong giai đoạn điều tra đã có đầy đủ lời khai trong hồ sơ. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 291và khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vắng mặt họ.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Huỳnh Thanh N.. khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định, biên bản ghi lời khai người làm chứng cùng các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định khoảng 01 giờ ngày 01/01/2021, bị cáo Huỳnh Thanh N.. bị bắt quả tang khi đang vận chuyển 10,5 kg, cần sa (thảo mộc khô) như nội dung bản cáo trạng mà Kiểm sát viên đã nêu.

Đánh giá tính chất, mức độ hành vi: Bị cáo là người có đủ hành vi năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết vận chuyển trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Nhưng để có tiền tiêu xài, mà đã có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến việc độc quyền quản lý của nhà nước đối với các chất về ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó còn là nguyên nhân và điều kiện phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Huỳnh Thanh N.. có đầy đủ dấu hiệu của tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 250 Bộ luật Hình sự, như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Không.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hiểu biết pháp luật hạn chế, là lao động chính trong gia đình, có ông nội là Huỳnh Văn Kh.. (chết) là người có công cách mạng, bản thân bị cáo tham gia nghĩa vụ quân sự từ năm 2015 đến 2017 xuất ngủ nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào tính chất mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, cũng như nhân thân bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần có mức án nghiêm khắc, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm tạo điều kiện cho bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình, cũng để răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội. Vì vậy, việc xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự đối với bị cáo là cần thiết. Do đó, mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân huyện B đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm về hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Biện pháp tư pháp:

* Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) thùng giấy được niêm phong (vụ 02/KLGT-PC09 (MT) ngày 06/01/2021 có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện T, tỉnh A, có chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K.., Nguyễn Trung S... Bên trong còn mẫu vật sau khi đã giám định là ma túy, loại: cần sa (lá, hoa, quả, cành thảo mộc khô), khối lượng 10,48kg;

- Thông báo công khai 01 năm kể từ ngày 12/01/2021, theo Thông báo số 115/TB-CQĐT của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện B để xác định chủ sở hữu: 01 (một) chiếc võ lãi Composite, dài 7,9 m, cao 0,4 m, ngang 0,8m; 01 máy đặt ngoài hiệu Hinota; 01 cân bàn điện tử màu xanh, đều đã qua sử dụng. Hết thời hạn 01 năm không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ Nhà nước, do phương tiện sử dụng vào việc phạm tội.

[5] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung, do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn.

[6] Vấn đề khác:

- Đối với người đàn ông tên Ron, do Nhân khai không biết họ, địa chỉ cụ thể; do vậy Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ hành vi xử lý sau.

- Ngoài lần phạm tội bị phát hiện bắt quả tang, Huỳnh Thanh N.. khai nhận còn nhiều lần cùng Võ Văn Nh.. vận chuyển cần sa cho Huỳnh Thanh S... Hiện Sang và Nhân không có mặt ở địa phương, ngoài lời khai của Nhân không có chứng cứ khác; Đối với việc Huỳnh Thanh N.. có hành vi qua lại biên giới Việt Nam – Campuchia trái phép, nhưng chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B không truy cứu trách nhiệm đới với những lần này, tiếp tục xác minh, làm rõ sẽ xử lý sau; Đối với hành vi Huỳnh Thanh S.. và Võ Văn Nh.., Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện B tách ra, tiếp tục điều tra, xử lý sau là có căn cứ.

- Đối với Châu Minh T.. cũng khai nhận có vận chuyển cần sa thuê cho Huỳnh Thanh S.. 01 lần, được trả tiền thuê là 500.000 đồng, ngoài lời khai của Tuấn thì không có chứng cứ khác, nên sẽ điều tra làm rõ và xử lý sau.

- Đối với Huỳnh Văn H.., Nguyễn Thị T.., Huỳnh Thị Cẩm D.. khi nghe nói Huỳnh Thanh S.. kêu Huỳnh Thanh N.. cùng Võ Văn Nh.. vận chuyển cần sa và biết việc vận chuyển là vi phạm pháp luật, đã có tác động khuyên ngăn và việc Huỳnh Thanh S.., Huỳnh Thanh N.., Võ Văn Nh.. có vận chuyển cần sa hay không thì không biết rõ.. Vì vậy, không khởi tố, xử lý Hận, Trang và Duyên về hành vi không “tố giác tội phạm”.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm i khoản 2 Điều 250; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

1. Tuyên bố:

- Bị cáo Huỳnh Thanh N.. phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt:

- Bị cáo Huỳnh Thanh N.. 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 01/01/2021 (ngày một, tháng một, năm hai nghìn không trăm hai mươi mốt).

- Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung bằng tiền cho bị cáo.

3. Biện pháp tư pháp:

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 228 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) thùng giấy được niêm phong (vụ 02/KLGT-PC09 (MT) ngày 06/01/2021 có in hình dấu tròn màu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện T, tỉnh A, có chữ ký ghi tên Nguyễn Đăng K.., Nguyễn Trung S... Bên trong còn mẫu vật sau khi đã giám định là ma túy, loại: cần sa (lá, hoa, quả, cành thảo mộc khô), khối lượng 10,48kg;

- Thông báo công khai 01 năm kể từ ngày 12/01/2021, theo Thông báo số 115/TB-CQĐT của Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện B để xác định chủ sở hữu: 01 (một) chiếc võ lãi Composite, dài 7,9 m, cao 0,4 m, ngang 0,8m; 01 máy đặt ngoài hiệu Hinota; 01 cân bàn điện tử màu xanh, đều đã qua sử dụng. Hết thời hạn 01 năm không xác định được chủ sở hữu thì tịch thu sung quỹ Nhà nước, do phương tiện sử dụng vào việc phạm tội.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 31/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện B).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Huỳnh Thanh N.. phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng thời hạn kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Châu Minh T.. vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 LuậtThi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội vận chuyển trái phép chất ma túy số 15/2021/HS-ST

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về