Bản án về tội trộm cắp tài sản (xe đạp) số 593/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 593/2022/HS-ST NGÀY 28/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2022, tại Điểm cầu trung tâm - Hội trường số 4 trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và điểm cầu thành phần - Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, tiến hành xét xử công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 586/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 12 năm 2022; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 1257/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 12 năm 2022, đối với:

- Bị cáo: Nguyễn Hiếu N, sinh năm 1978 tại tỉnh Đồng Nai; nơi cư trú: Không xác định (Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai); nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Đặng Thị Ng; Gia đình bị cáo có 08 anh em, bị cáo là con thứ sáu; bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án:

- Ngày 18/01/2017, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai xử phạt 10 (mười) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 27/11/2019, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 (một) năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” (Tài sản trộm cắp dưới 2.000.000 đồng).

Tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 25/9/1997, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai xử phạt 04 (bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

- Ngày 31/5/2002, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai xử phạt 18 (mười hai) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Ngày 29/10/2015, bị Toà án nhân dân thành phố Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai xử phạt 06 (sáu) tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 24/9/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 1006/LTG-ĐTTH ngày 03/10/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1976; địa chỉ: Khu phố 4, phường TP, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (Ông L vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 24/9/2022, Nguyễn Hiếu N đi bộ một mình từ nhà tại số 276/2, tổ 4, khu phố 4, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai đến khu vực phường TP, thành phố B để tìm người sở hở trong quản lý tài sản trộm cắp. Khi N đi ngang đến nhà số 6R, khu phố 4, phường TP, thành phố B, tỉnh Đồng Nai do ông Nguyễn Văn L làm chủ thì phát hiện thấy cửa cổng khép, ổ khoá móc trên khoen cửa cổng (nhưng không khoá), bên trong sân có dựng 01 (Một) xe đạp màu đen, hiệu KURASHI, không có người trông coi nên N đi đến, dùng tay mở ổ khoá ra khỏi khoen cửa cổng, mở cửa cổng đi vào bên trong sân, dắt chiếc xe đạp trên ra khỏi cổng được khoảng 03 mét thì bị ông L phát hiện, tri hô, đuổi theo nên N vứt chiếc xe đạp trên đường rồi bỏ chạy nhưng bị ông L cùng quần chúng nhân dân bắt giữ được N, giao Công an phường TP lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Công an phường TP lập hồ sơ, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà điều tra, xử lý.

Về vật chứng:

- 01 (Một) xe đạp màu đen, hiệu KURASHI thuộc sở hữu của ông Nguyễn Văn L. Hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã thu hồi, trả lại cho ông L.

- 01 (Một) đĩa CD lưu lại hình ảnh N thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe đạp hiệu KURASHI tại nhà ông L được lưu trong hồ sơ vụ án.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 1050/KL-HĐĐGTS ngày 27-9-2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Biên Hoà kết luận: “01 (Một) xe đạp hiệu Kurashi có giá trị định giá tài sản là 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng)”.

Về bồi thường dân sự: Ông Nguyễn Văn L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 591/CT-VKSBH ngày 29/11/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Nguyễn Hiếu N về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

+ Áp dụng Khoản 1 Điều 173 và điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Hiếu N từ 10 (Mười) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù giam.

Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

3. Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

- Bị hại ông Nguyễn Văn L trình bày tại phiên tòa: Ông L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Đối với phần trách nhiệm hình sự của bị cáo N, ông L đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Bị cáo N thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố, không bào chữa và tranh luận gì; không có ý kiến hay khiếu nại đối với kết luận định giá tài sản. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Bị hại là ông Nguyễn Văn L vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án và không yêu cầu bồi thường. Việc vắng mặt bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai bị hại, biên bản lấy lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử công bố tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 24/9/2022, tại nhà số 6R, khu phố 4, phường TP, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Hiếu N đã có hành vi trộm cắp 01 (Một) xe đạp hiệu Kurashi có giá trị định giá tài sản là 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) của ông Nguyễn Văn L thì N bị bắt quả tang.

- Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Bị cáo biết hành vi lén lút lấy tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng có nhiều lần bị xử phạt tù về tội trộm cắp tài sản nhưng không lấy đó làm bài học sâu sắc cho bản thân để sửa đổi trở thành người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội mà lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội, điều này thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Nguyễn Hiếu N phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số: 591/CT-VKSBH ngày 29/11/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Hiếu N về tội “Trộm cắp tài sản” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này của bị cáo bị xác định là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định nêu trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Nguyễn Hiếu N để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của pháp luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Bị hại là ông Nguyễn Văn L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về vật chứng:

- Đối với 01 (Một) xe đạp màu đen, hiệu KURASHI, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã thu hồi, trả lại cho ông L là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Lưu hồ sơ vụ án 01 (Một) đĩa CD ghi lại hình ảnh N thực hiện hành vi trộm cắp.

[5] Về án phí:

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Hiếu N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận; đối với đề nghị của Kiểm sát viên về mức hình phạt là phù hợp một phần nên chấp nhận phần phù hợp.

- Đối với trình bày của bị cáo được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hiếu N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Về hình phạt:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173 và điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hiếu N 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 24/9/2022.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc các bị cáo Nguyễn Hiếu N phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (xe đạp) số 593/2022/HS-ST

Số hiệu:593/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về