Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 85/2020/HS-ST NGÀY 20/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2020, tại phòng xét xử Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 83/2020/TLST-HS ngày 22/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 85/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Văn T, sinh năm 1990 tại xã NT, huyện GL, tỉnh Hải Dương; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn CD, xã NT, huyện GL, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con bà Phạm Thị H, sinh năm 1962 (không rõ tên cha); có vợ là Vũ Thị L, sinh năm 1992 (đã ly hôn) và 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án: Bản án số 01/2020/HSST ngày 10/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt T 09 tháng tù về tội trộm cắp tài sản (tổng giá trị tài sản chiếm đoạt 2.330.000 đồng), ngày 11/7/2020 T chấp hành xong hình phạt tù; Tiền sự: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12/QĐ-XPVPHC ngày 13/9/2019 của Công an thị trấn Gia Lộc đối với Phạm Văn T về hành vi vứt mẩu thuốc lá không đúng nơi quy định sản bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng (ngày 01/10/2019 đã nộp phạt 400.000 đồng); quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 07/QĐ-XPVPHC ngày 30/9/2019 của Công an thị trấn Thanh Miện, huyện Thanh Miện đối với Phạm Văn T về hành vi Trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt tiền 1.500.000 đồng (ngày 07/10/2019 đã nộp phạt 1.500.000 đồng); Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 106/QĐ- XPVPHC ngày 07/7/2015 của Công an huyện Thanh Miện xử phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (ngày 13/7/2015 đã nộp phạt 750.000 đồng); Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 172/QĐ-XPVPHC ngày 07/6/2016 của Công an thành phố Hải Dương xử phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Bị cáo Phạm Văn T bị tạm giam từ ngày 17/9/2020 đến nay tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Hải Dương theo Lệnh Bắt bị can để tạm giam số 18 ngày 16/9/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Gia Lộc. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo T: Bà Nguyễn Thị S, là Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước- Sở Tư pháp tỉnh Hải Dương. Có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Vũ Văn H2, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị H3, sinh năm 1957; Trú tại: Thôn CD, xã NT, huyện GL, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Văn H4, sinh năm 1956 và bà Vũ Thị H5, sinh năm 1956; Trú tại: Thôn CD, xã NT, huyện GL, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn B, sinh năm 1972; trú tại: Khu X, thị trấn LC, huyện CG, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn T là người sử dụng chất ma túy, đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích. Do không có tiền chi tiêu nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền. Trong các ngày 15 và ngày 17/8/2020 T đã thực hiện các hành vi trộm cắp tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Chiều ngày 15/8/2020, T đi bộ qua nhà ông Vũ Văn H2 sinh năm 1960 ở thôn CD - Xã NT - huyện GL - tỉnh Hải Dương nhìn thấy trong sân nhà ông H2 có dựng 01 chiếc xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha màu sơn trắng-đen nên nảy sinh ý định đi lấy trộm chiếc xe đạp trên. Đợi đến khoảng 22h cùng ngày, T mang theo 01 chiếc chìa khóa rồi đi bộ sang nhà ông H2, mở cánh cửa gỗ ở vườn rau và đi vào trong sân. Quan sát thấy trong sân có lán xe không có cửa, chỉ có một tấm vải che. T vén tấm vải thấy bên trong có 01 chiếc xe máy, 01 xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha màu sơn trắng đen và 01 xe đạp. T gạt chân chống xe đạp điện rồi dắt xe theo lối cũ đi ra ngoài đường trước cổng nhà ông H2, T dùng chiếc chìa khóa mang theo từ trước để mở khóa điện. Sau đó T điều khiển xe đạp điện đến cửa hàng mua bán xe máy, xe đạp Bá B của ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1972 ở Khu X thị trấn LC- huyện CG- Hải Dương, bán xe máy cho ông B được 400.000 đồng. Số tiền bán xe T đã chi tiêu hết. Ngày 16/8/2020, ông Vũ Văn H2 có đơn trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lộc.

Vật chứng thu giữ: Ngày 16/8/2020, ông Nguyễn Văn B đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lộc 01 xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha sơn màu trắng - đen, số khung 56621455002695, số máy 48VAN14CG 018634GD0XM8, 01 chìa khóa xe màu đen.

Vụ thứ hai: Tối ngày 17/8/2020, T đi bộ quanh khu vực thôn CD mục đích trộm cắp tài sản. Khoảng 19h30’cùng ngày, T đi qua nhà ông Nguyễn Văn H4, sinh năm 1956 ở thôn CD - Xã NT thấy cổng nhà ông H4 mở, trong lán xe ở cuối sân có dựng 02 chiếc xe đạp và 01 xe máy. Quan sát thấy không có người, T đi vào trong sân đến khu vực lán xe gạt chân chống chiếc xe đạp mini màu sơn xanh lam, phía trước có giỏ xe màu trắng dắt ra ngoài đường rồi lên xe đi về nhà. Khi T đi về gần đến nhà thì bị lực lượng công an Công an xã Nhật Tân trong khi làm nhiệm vụ phát hiện T có biểu hiện nghi vấn trộm cắp tài sản nên T hành làm việc với T, T khai nhận vừa trộm cắp xe đạp của gia đình ông H4. Công an xã Nhật Tân đã quản lý 01 xe đạp loại xe mini màu sơn xanh lam, phía trước có giỏ xe màu trắng, tại chắn bùn phía trước có ghi chữ “Phương Linh” màu trắng, xe cũ đã qua sử dụng. Ngày 17/8/2020 ông Nguyễn Văn H4 có đơn trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Gia Lộc.

Tại Kết luận định giá tài sản số 29 và 30 ngày 20/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự- Ủy ban nhân dân huyện Gia Lộc kết luận:

- 01 xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha, màu sơn trắng đen, số máy 48VAN14CCG018634GDOXM8; số khung 56621455002695; mua mới từ năm 2017, đã cũ qua sử dụng trị giá là 1.100.000 đồng.

- 01 xe đạp, loại xe mini, màu sơn xanh lam, phía trước có giỏ xe màu trắng, chắn bùn phía trước có ghi chữ “Phương Linh” màu trắng; xe cũ đã qua sử dụng, giá trị là 220.000 đồng. Tổng giá trị của 02 loại tài sản trên là 1.320.000 đồng.

Ngày 20/8/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Gia Lộc đã trả lại cho ông Vũ Văn H2 01 xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha, màu sơn trắng đen và trả lại ông Nguyễn Văn H4 01 xe đạp mini, màu sơn xanh lam. Ông H2 và ông H4 sau khi nhận lại tài sản, không yêu cầu bị can T phải bồi thường, ông Nguyễn Văn B tự nguyện cho bị can T và không yêu cầu T hoàn trả số tiền 400.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 20/10/2020 Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương đã truy tố Phạm Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự (viết tắt: BLHS).

Tại phiên tòa:

Đại diện VKSND huyện Gia Lộc giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Đề nghị tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 09 tháng đến 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/9/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: không phải giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa có tay cầm bằng nhựa màu đen.

Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Văn T.

Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T- Bà Nguyễn Thị S trình bày: Nhất trí với luận tội của đại diện VKS nhân dân huyện Gia Lộc, xác định quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội gây hậu quả không lớn, bản thân bị cáo lại thuộc diện hộ nghèo nên đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo T ở mức hình phạt thấp nhất và miễn toàn bộ án phí cho bị cáo T.

Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lộc, Điều tra viên, VKSND huyện Gia Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Phạm Văn T đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích. Trong các ngày 15 và 17/8/2020, tại nhà ông Vũ Văn H2 và ông Nguyễn Văn H4 đều ở thôn CD, xã NT, huyện GL, tỉnh Hải Dương, Phạm Văn T đã lợi dụng sơ hở trong quản lý tài sản, lén lút chiếm đoạt 01 xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha màu sơn trắng - đen của ông H2 và 01 xe đạp mini màu xanh của ông H4. Tổng trị giá tài sản T chiếm đoạt của ông H2 và ông H4 là 1.320.000 đồng.

[3] Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự nhưng do cần tiền để tiêu xài, lại lười lao động nên bị cáo vẫn cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, tuy giá trị tài sản chiếm đoạt là 1.320.000đ nhưng ngày 10/01/2020 bị cáo bị TAND huyện Gia Lộc xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, ngày 11/7/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, đến ngày phạm tội bị cáo vẫn chưa được xóa án tích nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do đó, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lộc là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý hoang mang cho người dân trong việc quản lý tài sản. Vì vậy, cần thiết phải áp dụng mức hình phạt nghiêm, phù hợp với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo, góp phần phòng ngừa tội phạm nói chung.

[5] Về nhân thân, tiền án, tiền sự, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, nhận thấy: Bị cáo T có nhân thân xấu và có hai tiền sự chưa được xóa. Bị cáo có một tiền án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích, ngày 15/8/2020 và ngày 17/8/2020 lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo và giá trị tài sản bị caó chiếm đoạt là 1.320.000 đồng dưới định lượng quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” và “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Căn cứ vào tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, HĐXX nhận thấy bị cáo đã từng bị Tòa án xét xử về tội Trộm cắp tài sản, tháng 7/2020 mới chấp hành xong hình phạt tù và trở về địa phương sinh sống nhưng bị cáo không lấy đó là bài học, không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội mà lại tiếp tục phạm tội. Do đó, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian thích hợp mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung [7] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại sau khi nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu bị caó phải bồi thường, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Văn B tự nguyện cho bị cáo và không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 400.000 đồng nên HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

[9] Về vật chứng:

Ngày 20/8/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an huyện Gia Lộc đã trả lại cho ông Vũ Văn H2 01 xe đạp điện nhãn hiệu Yamaha, màu sơn trắng đen và trả lại ông Nguyễn Văn H4 01 xe đạp mini, màu sơn xanh lam, ông H4, ông H2 không có yêu cầu gì nên HĐXX không đặt ra xem xét, giải quyết.

Đối với 01 chiếc chìa khóa, có tay cầm bằng nhựa màu đen là công cụ bị cáo dùng để phạm tội nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS.

[10] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[11] Đối với ông Nguyễn Văn B khi mua xe đạp điện không biết là tài sản do T phạm tội mà có nên không xử lý.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm h, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Phạm Văn T.

1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/9/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy 01 chiếc chìa khóa có tay cầm bằng nhựa màu đen (đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Gia Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lộc ngày 23/10/2020).

4. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Văn T.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 85/2020/HS-ST

Số hiệu:85/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về