Bản án về tội trộm cắp tài sản số 733/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 733/2022/HS-PT NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa trực tuyến xét xử công khai vụ án hình sự xét xử Phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 564/2022/TLPT-HS ngày 10 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 706/2022/QĐXXPT-HS ngày 13 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Bảo P. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 297/2022/HS-ST ngày 29/6/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Phiên tòa được tiến hành tại 02 điểm cầu, điểm cầu trung tâm là Phòng xử án của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh - địa chỉ số 131 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường B1, Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh; điểm cầu thành phần là phòng xử tại Trại tạm giam Chí Hòa (T30) - Công an Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Bảo P; Sinh ngày: 10/05/1993 tại Nam Định; Nơi thường trú: khu S1, thị trấn S2, huyện S3, tỉnh Nam Định; Nơi tạm trú và nơi ở hiện tại: Phòng 301, nhà trọ số 103 Đường S5, phường S4, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: nhân viên; Giới tính: nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Vũ P1 và bà: Vũ Thị H1; có vợ là Ngô Thu T, chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2021 (có mặt).

Người tham gia tố tụng khác: Ông Nguyễn Huy Anh N - Cán bộ trại tạm giam T30 - Công an Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

(Trong vụ án còn có bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 11/4/2021, Nguyễn Bảo P một mình thuê xe ôm Grab từ phòng trọ số 301 địa chỉ số 103 Đường S5, phường S4, Quận 7 đến khu vực Phú Mỹ Hưng thuộc Quận 7 rồi xuống xe đi bộ tìm nhà nào sơ hở để lấy trộm tài sản. Khi đi bộ đến khu biệt thự Nam Quang 2, P nhìn thấy nhà số A29 Lý Long T2, phường T3, Quận 7 đã tắt hết đèn trong nhà, nên leo rào vào sân nhưng không đột nhập được vào nhà do các cửa đã khóa. P đi men theo tường rào nhà A29 quan sát các nhà liền kề thì phát hiện căn nhà số 65/14 đường Lý Long T2 có cửa sổ thông gió phòng vệ sinh tầng trệt đang mở, P leo rào sang rồi theo đường cửa sổ thông gió đột nhập vào nhà 65/14 đường Lý Long T2 rồi đi lên lầu 1 mở cửa vào phòng ngủ thấy vợ chồng ông Nam Kwork F, bà Wong Lai W (quốc tịch: Chinese) đang ngủ trên giường. P lén lút vào phòng mở ngăn kéo bàn trang điểm lấy 01 bóp da cất vào túi quần rồi kéo 01 vali trong phòng ra ngoài phòng khách lục tìm tài sản thì thấy trong ngăn nhỏ của vali có 03 xấp tiền đô la Mỹ cột bằng dây thun nên lấy 03 xấp tiền bỏ vào túi quần rồi đi xuống cầu thang thì nhìn thấy 03 đầu thu camera ghi hình, do sợ bị camera ghi lại hình ảnh nên P đã lấy 03 đầu thu cho vào túi vải có sẵn trong phòng mang theo rồi tẩu thoát qua cửa thông gió ra ngoài đường. Sau đó, P thuê xe ôm chở lòng vòng qua các Quận 7, 8, 5 và Quận 1 để tránh bị phát hiện, trên đường đi P đã vứt túi vải chứa 03 đầu thu camera ở đường Nguyễn Văn L.

Đến khoảng 04 giờ ngày 12/4/2021, P về đến nhà trọ của mình kiểm tra tài sản trộm được là 22.800 USD (đô la Mỹ), bên trong chiếc bóp da có 01 mặt đá màu xanh trắng và một số giấy tờ tùy thân, thẻ ngân hàng của ông Nam Kwork F. Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản, ông Nam Kwork F đã đến trụ sở Công an phường T3, Quận 7 trình báo vụ việc. Nhận được tin báo, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã phối hợp với các cơ quan chức năng tổ chức khám nghiệm hiện trường, tiến hành rà soát camera an ninh tại khu vực xảy ra vụ án, kết quả phát hiện có camera ghi lại hình ảnh đối tượng đột nhập vào nhà 65/14 đường Lý Long T2 sau đó leo ra tẩu thoát.

Qua truy xét, ngày 19/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 đã tiến hành kiểm tra phòng trọ của P ở số 301 địa chỉ số 103 Đường S5, phường S4, Quận 7 phát hiện và thu giữ các đồ vật có liên quan đến vụ án, đồng thời ngày 20/4/2021 ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với P.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Nguyễn Bảo P đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên. P khai sáng ngày 12/4/2021, P mang số tài sản trộm được đón xe khách đi các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng liên hệ bán hàng cho Công ty Nin (P làm nhân viên của Công ty), P đã đổi 4.800 USD tại nhiều điểm thu đổi ngoại tệ (không rõ địa chỉ) được 111.000.000 đồng rồi đến bưu điện Viettel(không rõ địa chỉ) chuyển khoản 80.000.000 đồng trả nợ cho anh Vũ Việt A và mua 01 đồng hồ hiệu Samsung Galaxy, 01 tai nghe không dây hiệu Apple với giá 9.500.000 đồng, sau đó P quay về Thành phố Hồ Chí Minh.

Đến ngày 16/4/2021, P đi máy bay ra thành phố Hà Nội đến nhà cô ruột là chị Nguyễn Thị Thu H2 gửi chị H2 giữ hộ 17.000 USD và nói đây là tiền của P dành dụm được. Đến ngày 19/4/2021, P quay về Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 7 tiến hành kiểm tra bắt giữ. Việc P đi lấy trộm tài sản thì vợ P là chị Ngô Thu T, cô ruột Nguyễn Thị Thu H2 và anh Vũ Việt A hoàn toàn không biết. Khi bị Công an kiểm tra, thu giữ chiếc bóp bên trong có 01 mặt đá màu xanh trắng và một số giấy tờ tùy thân, thẻ ngân hàng của ông Nam Kwork F và 1.000 USD là tài sản chiếm đoạt của ông Nam Kwork F còn có 01 đồng hồ hiệu Samsung và 01 tai nghe Bluetooth do P sử dụng tiền chiếm đoạt của ông Nam Kwork F để mua, ngoài ra còn có 01 điện thoại di động hiệu Iphone và 01 Macbook Air đây là tài sản của chị Ngô Thu Thủy cho P mượn để làm việc bán hàng cho Công ty không liên quan đến vụ án. Tiến hành ghi lời khai chị Trần Thị Thu H2 khai nhận Nguyễn Bảo P có gửi chị H2 giữ hộ 17.000 USD, khi gửi P không nói cho chị H2 biết đây là tài sản do phạm tội mà có, chỉ nhờ giữ hộ, khi nào có ai bán nhà tại khu vực quận Ba Đình, thành phố Hà Nội thì báo cho P biết, nếu thấy giá hợp lý thì sẽ dùng số tiền này đặt cọc mua nhà. Chị H2 đã giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra 17.000 USD.

Tiến hành ghi lời khai anh Vũ Việt A khai nhận trước đó, anh Việt A có đặt cọc cho P 80.000.000 đồng để mua hàng từ Công ty của P, tuy nhiên P không giao hàng nên anh Việt A đòi lại tiền và P có chuyển khoản trả 80.000.000 đồng, sau khi đối chiếu số liệu mua bán hàng, anh Việt A đã chuyển khoản trả lại cho P 16.705.200 đồng. Anh Việt A không biết đây là tài sản do P phạm tội mà có và hiện tại đã sử dụng số tiền trên thanh toán tiền mua hàng của các Công ty khác.

Ghi lời khai chị Ngô Thu T trình bày hoàn toàn không biết việc P đi lấy trộm tài sản của người khác vào ngày 12/4/2021, đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone và 01 Macbook Air đây là tài sản của chị Thúy cho P mượn để làm việc, chị Thúy đã cung cấp các hóa đơn, chứng từ liên quan.

Theo Công văn số 2091/HCM-QLNHV ngày 23/7/2021 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh tỷ giá trung tâm của Đồng Việt Nam với Đô la Mỹ, áp dụng cho ngày 12/4/2021 như sau: 1 Đô la Mỹ = 23.218 VND. Như vậy 22.800 USD P chiếm đoạt tương đương 529.370.400 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho ông Nam Kwok Fu số tài sản gồm 18.000 USD (chị H2 giao nộp 17.000 USD và thu giữ của P 1.000 USD), 01 bóp da bên trong có 01 miếng cẩm thạch màu xanh ngọc cùng một số giấy tờ tùy thân và thẻ ngân hàng mang tên ông Nam Kwok Fu.

Đối với 03 đầu thu camera, 01 ví da, 01 miếng cẩm thạch ông Nam Kwok Fu cho biết không có hóa đơn, chứng từ và không có giá trị. Riêng các thẻ ngân hàng, không bị mất tiền nên ông Nam Kwok Fu không yêu cầu P phải bồi thường.

Vật chứng thu giữ:

- 01 đồng hồ đeo tay hiệu Samsung màu đen.

- 01 tai nghe Bluetooth màu trắng.

- 01 Điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng.

- 01 Macbook Air màu bạc, số serial: C17N4371G085.

- 01 USB chứa dữ liệu camera ghi lại hình ảnh vụ trộm cắp tài sản.

Phần dân sự: Ông Nam Kwok Fu đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 199/CT-VKS-P2 ngày 19/4/2022, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Bảo P về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 297/2022/HS-ST ngày 29 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bảo P 12 (mười hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 04/7/2022, bị cáo Nguyễn Bảo P có đơn kháng cáo yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa Phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Bảo P giữ nguyên kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo đã khắc phục hậu quả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Bị cáo Nguyễn Bảo P phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội với số tiền 22.800 USD trị giá 529.370.400 đồng, bị hại đã nhận lại số tiền 18.000 USD, còn số tiền 4.800 USD do bị hại không yêu cầu, chứ không phải bị cáo đã khắc phục hậu quả. Vụ việc được phát hiện là thông qua camera ghi hình lại, ngay từ đầu bị cáo không có thái độ khai báo đầu thú. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ hình phạt, tại phiên toà Phúc thẩm bị cáo P không xuất trình được tình tiết nào khác, nên mức án 12 năm tù cho bị cáo là thỏa đáng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Bảo P không tranh luận về phần tội danh. Tuy nhiên, trong suốt quá trình điều tra truy tố và xét xử, bị cáo luôn có thái độ thành khẩn, khai báo ăn năn hối cải; phía bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm, mức độ nguy hiểm không còn. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà bản án sơ thẩm đã tuyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Vào ngày 11/4/2021, bị cáo P đã lén lút đột nhập vào nhà số 65/14 Lý Long T2, phường T3, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh lấy trộm của ông Nam Kwok Fu (Quốc tịch Trung Quốc) số tiền 22.800 USD trị giá 529.370.400 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:

[2.1] Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tình tiết giảm cho hình phạt cho bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 để giảm cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu và mức án đã tuyên là phù hợp.

[2.2] Bị cáo P đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo đã khắc phục hậu quả, luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo không còn. Hội đồng xét xử xét thấy:

Số tiền phạm tội được quy kết là 22.800 USD trị giá 529.370.400 đồng, sau khi bắt bị cáo đã thu số tiền 18.000 USD và trả cho bị hại, ngoài ra còn số tiền 4.800 USD bị cáo chiếm đoạt do bị hại không yêu cầu bồi thường. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý thức khắc phục hậu quả. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xảy ra và trên thực tế bị hại vẫn còn bị thiệt hại nên không chấp nhận bào chữa của Luật sư cũng như của bị cáo.

[2.3] Tại phiên tòa Phúc thẩm, bị cáo không trình bày được tình tiết giảm nhẹ mới để Hội đồng xét xử xem xét. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Về án phí:

Do Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự Phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Bảo P, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2/ Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Bảo P 12 (mười hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2021.

Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Bảo P theo quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo thi hành án.

3/ Về án phí: Bị cáo Nguyễn Bảo P phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự Phúc thẩm.

4/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án Phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 733/2022/HS-PT

Số hiệu:733/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về