Bản án về tội trộm cắp tài sản số 63/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẬP THẠCH, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 63/2022/HS-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 9 năm 2022, tại điểm cầu Trung tâm - Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc, điểm cầu thành phần - Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, Tòa án nhân dân huyện Lập Thạch xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 48/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2022. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu T, sinh ngày 12/9/1993 tại tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Lê Thị L (đã ly hôn) và 02 con (con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019); tiền án: Không.

Tiền sự có 01: Tại quyết định số 02/QĐ-XPHC ngày 21/3/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi trộm cắp tài sản, đến nay chưa nộp phạt.

Nhân thân: Tại quyết định số 719/QĐ-XPHC ngày 23/6/2020 Công an huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi trộm cắp tài sản, đã nộp phạt xong ngày 21/8/2020.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/6/2022 (có mặt tại điểm cầu thành phần);

- Bị hại: Chùa P; địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1952; trú tại: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Bà Trần Thị T, sinh năm, 1971; trú tại: Thôn T, xã L, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc ( vắng mặt).

+ Chị Nguyễn Hoài T, sinh năm, 1983; trú tại: T, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 09/4/2022, Nguyễn Hữu T (là đối tượng nghiện ma túy) một mình đi bộ sang chùa P ở cùng thôn với mục đích trộm cắp tài sản bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. Tại đây, T quan sát thấy Nhà tưởng niệm Bác Hồ trong chùa P có 02 cánh cửa bằng sắt. T quan sát thấy không có ai trông giữ nên nảy sinh ý định trộm cắp, T nhặt 01 đoạn gỗ mỏng, dài khoảng 50cm ở góc sân chùa gần đó rồi đi đến vị trí cánh cửa sắt phía bên phải (nhìn từ ngoài vào) của Nhà tưởng niệm Bác Hồ, T dùng đoạn gỗ nhét vào khe dưới giữa mặt đất và cạnh dưới cánh cửa rồi bẩy cánh cửa sắt lên lệch khỏi bản lề rồi dùng tay bê cánh cửa sắt mang ra ngoài và đem đến cửa hàng sắt vụn của anh Đỗ Thanh H để bán nhưng anh H không mua. Do không bán được nên T đã đem cánh cửa sắt này ra cất giấu ở khu vực mương nước ngoài cánh đồng thôn T, xã B cất giấu rồi về nhà ngủ. Đến khoảng 05 giờ 30 phút ngày 10/4/2022, T một mình đi bộ ra nơi cất giấu cánh cửa sắt và vác cánh cửa sắt này đi sang xã L, huyện L bán cho bà Trần Thị T (là người đi thu mua sắt vụn) được 130.000 đồng, sau đó T một mình đi đến khu vực thôn X, xã B mua ma túy của một thanh niên không rõ tên tuổi địa chỉ và sử dụng hết. Đến chiều cùng ngày, bà Nguyễn Thị L là người được giao trông coi chùa P đi kiểm tra phát hiện bị kẻ gian trộm cắp mất 01 cánh cửa sắt nên bà L trình báo Cơ quan Công an để giải quyết.

Ngày 04/05/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lập Thạch có văn bản số 20/KL – HĐĐG kết luận: 01 cánh cửa bằng sắt, nặng 15 kg, có kích thước 195cm x 60cm đã cũ bị Nguyễn Hữu T trộm cắp được định giá là 165.000 đồng.

Sau khi mua được 01 cánh cửa sắt của T với giá 130.000 đồng, bà T đã bán lại cho chị Nguyễn Hoài T là chủ cửa hàng thu mua sắt vụn ở xã B với giá 150.000 đồng.

Chị Nguyễn Hoài T đã tự nguyện giao nộp cánh cửa sắt cho cơ quan điều tra và không yêu cầu T, bà T phải bồi thường gì.

Về vật chứng vụ án: 01 cánh cửa sắt, sơn màu đỏ, nặng 15 kg, có kích thước 195cm x 60cm, ngày 13/4/2022 Cơ quan điều tra đã trả lại chùa P và không yêu cầu T phải bồi thường gì; 01 đoạn gỗ mỏng, dài khoảng 50cm là đoạn gỗ vứt bỏ ở góc sân chùa, T dùng làm công cụ thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra đã rà soát nhưng không thu giữ được.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Hữu T đã thành khẩn khai nhận rõ hành vi trộm cắp tài sản của mình như nêu trên.

Bản Cáo trạng số 53/CT-VKSLT ngày 02/8/2022, Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Hữu T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Hữu T đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Nguyễn Hữu T từ 08 tháng đến 12 tháng tù. Không phạt bổ sung.

Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo Nguyễn Hữu T nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Lập Thạch, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Lập Thạch, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hữu T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện Lập Thạch đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người liên quan, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận định giá tài sản …. và những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 09/4/2022, Nguyễn Hữu T đã trộm cắp 01 chiếc cánh cửa sắt tại Nhà tưởng niệm Bác Hồ trong chùa P Tự tại thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc. Trị giá tài sản trộm cắp là 165.000đồng.

Bị cáo Nguyễn Hữu T có 01 tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản đó là: Ngày 21/3/2022, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã B, huyện L xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền đối với Nguyễn Hữu T về hành vi trộm cắp tài sản, đến nay chưa được xóa tiền sự. Nên hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác do bị cáo Nguyễn Hữu T thực hiện đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá … dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;... ”.

Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, xong hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Bản thân bị cáo là thanh niên có sức khỏe, nhưng bị cáo không chịu làm ăn lương thiện, mà ăn chơi đua đòi trộm cắp tài sản lấy tiền ăn tiêu. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật là cần thiết nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Nguyễn Hữu T đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính đó là ngày 23/6/2020, Công an huyện T xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi trộm cắp tài sản, lần xử phạt này bị cáo đã chấp hành xong và được xóa tiền sự. Mặc dù đã được xóa tiền sự này nhưng chứng tỏ bị cáo là người luôn không chấp hành pháp luật nên cần áp dụng hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo trộm cắp tài sản nhưng gây thiệt hại không lớn nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Từ những phân tích, đánh giá nêu trên thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù một thời gian phù hợp mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4]. Về việc áp dụng hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo không có việc làm, không có tài sản gì nên không cần thiết phải phạt bị cáo một khoản tiền sung quỹ Nhà nước.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Chị Nguyễn Hoài T, khi mua 01 cánh cửa sắt không biết là tài sản do trộm cắp mà có, chị T đã tự nguyện giao nộp cánh cửa sắt cho cơ quan điều tra và không yêu cầu T, bà T phải bồi thường gì nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Đi với 01 cánh cửa sắt, sơn màu đỏ, nặng 15 kg, có kích thước 195cm x 60cm là tài sản của chùa P, ngày 13/4/2022 Cơ quan điều tra đã trả lại chùa P là phù hợp.

Đi với 01 đoạn gỗ mỏng, dài khoảng 50cm là đoạn gỗ vứt bỏ ở góc sân chùa, T dùng làm công cụ thực hiện hành vi phạm tội, Cơ quan điều tra đã rà soát nhưng không thu giữ được.

[7]. Đối với bà Trần Thị T là người mua cánh cửa sắt của bị cáo T, chị Nguyễn Hoài T mua cánh cửa sắt của bà Trần Thị T, khi mua cánh cửa sắt này bà T, chị T không biết là tài sản do Tc trộm cắp mà có, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.

[8]. Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu T 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam ngày 26/6/2022.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Hữu T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 63/2022/HS-ST

Số hiệu:63/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lập Thạch - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về