Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 62/2022/HS-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 4 năm 2022 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 60/2022/TLST-HS ngày 24 tháng 03 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 80/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1986, tại: Bắc Ninh; Hộ khẩu thường trú: thôn P ( nay là thôn P L) xã P L, huyện Q, tỉnh B; tạm trú: không ổn định; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phi H, sinh năm 1962 và bà Đàm Thị T, sinh năm 1965; bản thân có vợ tên Ngô Thị Lan H, sinh năm 1988( đã ly hôn) có hai con lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2012; tiền sự: không; tiền án: không; nhân thân: Ngày 23/10/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố TB, tỉnh T B xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Trộm cắp tài sản”. Tạm giam: 6/6/2021 (Có mặt).

Bị hại:

1. Chị Trần Phương U, sinh năm 1997; địa chỉ đường B, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

2. Cửa hàng mỹ phẩm Y đại diện là ông Lê Quang H – Tổng giám đốc Công ty; địa chỉ đường Q, Phường M, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

Bị đơn dân sự: công ty TNHH TMDV T do ông Lê Thành Ch làm đại diện theo pháp luật; địa chỉ đường P, Phường B, quận T, thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Với ý định trộm cắp tài sản, ngày 22/5/2021 Nguyễn Mạnh C (là bảo vệ hợp đồng thời vụ của Công ty TNHH TMDV T được phân công làm nhiệm vụ trực, bảo vệ, trông coi xe cho khách hàng và nhân viên cửa hàng tại cửa hàng mỹ phẩm Y) đã lén lút lấy chứng minh nhân dân của chị Trần Phương U đang làm tại Cửa hàng mỹ phẩm Y, địa chỉ đường Q, Phường M, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh chụp lại và lưu vào điện thoại của C. Khoảng 11 giờ 20 phút ngày 23/5/2021, C vào hỏi mượn chị U máy Ipad 4 của cửa hàng để chơi game. Khoảng 05 phút sau chị U ra nói C trông coi cửa hàng để U đi vệ sinh. Với ý định trộm cắp tài sản đã có từ trước, C vào kéo ngăn tủ ra thì thấy túi xách của chị U nên mở túi xách lấy trộm chìa khóa xe, giấy chứng nhận đăng ký xe và lấy trộm chiếc điện thoại di động hiệu Samsung của chị U để trên bàn. C lấy chìa khóa xe mở khóa xe gắn máy hiệu Piaggio Liberty của chị U nổ máy tẩu thoát. Khi đi vệ sinh xong chị U phát hiện C không có ở cửa hàng và chiếc xe gắn máy hiệu Piaggio Liberty bị mất trộm cùng 01 điện thoại di động hiệu Samsung (không rõ kiểu máy) và 01 Ipad mini 4 của cửa hàng. Chị Trần Phương U không trình báo sự việc mất trộm với Cơ quan Công an mà chỉ báo chị Nguyễn Lê Minh P, là đại diện cửa hàng biết.

Sau khi lấy trộm số tài sản trên, C mang chiếc 01 điện thoại di động hiệu Samsung và 01 Ipad mini 4 đến một Cửa hàng điện thoại ở Thành phố D, tỉnh B (không nhớ địa điểm bán) bán được số tiền 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăm ngàn đồng) và tiêu xài hết. Ngày 05/6/2021 C lên trang mạng xã hội “Chợ tốt vn” tìm thông tin người cần mua xe thì C liên lạc với anh Nguyễn Hoàng M, sinh năm: 1992, HKTT: khu phố H, phường L, Thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh, qua trao đổi cung cấp thông tin về chiếc xe thì anh M đồng ý mua chiếc xe với giá 18.000.000 đồng (Mười tám triệu đồng) và hẹn gặp C tại khu c, phường P, Thành phố T, tỉnh B để xem xe. Tại đây, anh M nghi ngờ xe C bán là xe trộm cắp nên anh M trình báo Công an phường P.

Ngày 05/6/2021, chị U được Công an phường P, Thành phố T, tỉnh B thông báo đang tạm giữ chiếc xe gắn máy hiệu Piaggio Liberty, màu trắng, biển số 59V2 – 878.50 cùng Nguyễn Mạnh C nên chị U đến Công an Phường M, quận G trình báo sự việc.

Vật chứng của vụ án: Một chiếc xe gắn máy hiệu Piaggio Liberty, màu trắng, biển số 59V2 – 878.50, số máy: MA43M5006349, số khung: 4110HV105381. Qua xác minh xe gắn máy trên do chị Trần Thị Phương U đứng tên chủ sở hữu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận G đã tiến hành trao trả lại xe gắn máy trên cho chị U. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 173/KL-HĐĐGTS ngày 14/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp quận thuộc Ủy ban nhân dân quận G kết luận xe gắn máy trên có giá 33.883.333 đồng tại thời điểm bị chiếm đoạt .

Một chiếc điện thoại di động hiệu SamSung (SM-A705F/DS), dung lượng 128GB, số Imei 355915104402805 (không thu hồi được) trị giá 3.600.000 đồng và một chiếc Ipad mini new wifi (MUQY2ZA/A), dung lượng 64GB (không thu hồi được) trị giá 7.466.667 đồng (Theo Kết luận định giá tài sản số 186/KL – HĐĐGTS ngày 25/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp quận thuộc Ủy ban nhân dân quận G). Một USB ghi lại hình ảnh sự việc.

Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKS, ngày 17/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận G đã truy tố Nguyễn Mạnh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 của của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Buộc bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính 7.500.000 đồng sung công quỹ Nhà nước. Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Nguyễn Mạnh C đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

[3] Để thực hiện ý định trộm cắp tài sản của mình nên khi có sự sơ hở của bị hại, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút lục giỏ xách lấy trộm chìa khóa xe để lấy chiếc xe gắn máy hiệu Piaggio Liberty biển số 59V2-878.50 trị giá 33.883.333 (ba mươi ba triệu tám trăm tám mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba) đồng, một chiếc điện thoại di động hiệu SamSung trị giá 3.600.000 (ba triệu sáu trăm ngàn) đồng của chị U và một chiếc Ipad mini trị giá 7.466.667 (bảy triệu bốn trăm sáu mươi sáu ngàn sáu trăm sáu mươi bảy) đồng của cửa hàng. Tổng giá trị bị cáo chiếm đoạt là 44.950.000 (bốn mươi bốn triệu chín trăm năm mươi ngàn) đồng. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Mạnh C đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, nguy hiểm cho xã hội, tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử phạt về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không chịu ăn năn hối cải lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội thể hiện ý thức bị cáo rất xem thường pháp luật. Cần thiết phải có mức án nghiêm khắc, cần có thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm có tác dụng giáo dục cho bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường thiệt hại và tài sản đã được thu hồi trả cho bị hại để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Tại phiên tòa hôm nay chị Trần Thị Phương U và đại diện cửa hàng mỹ phẩm Y vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện chị đã nhận lại chiếc xe gắn máy bị mất và số tiền bồi thường 9.000.000 đồng cho chiếc điện thoại di động và chiếc Ipad, hiện không thắc mắc, khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại .

[7] Đối với số tiền 9.000.000 đồng mà anh Lê Thành Ch đại diện Công ty TNHH TMDV T thay mặt bị cáo bồi thường cho chị U và cửa hàng, anh không yêu cầu bị cáo phải trả lại. Xét đây là ý chí tự nguyện và không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[8] Đối với số tiền 7.500.000 đồng là tiền bị cáo bán chiếc điện thoại và chiếc Ipad 4 mà có nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo nộp lại sung công quỹ Nhà nước.

[9] Bị cáo phải chịu án phí hành sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

[10] Bị cáo, bị hại, bị đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh C phạm tội “Trộm cắp Tài sản”;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh C 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ tạm giữ, tạm giam 6/6/2021.

Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 của của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Buộc bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính là 7.500.000 (bảy triệu năm trăm ngàn) đồng để sung công quỹ Nhà nước.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014)

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 62/2022/HS-ST

Số hiệu:62/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về