Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 54/2022/HS-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 3 năm 2022 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh B (Đ), sinh năm 1995, tại: Tây Ninh; hộ khẩu thường trú: Ấp B, xã P, huyện D, tỉnh T; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đ, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Mỹ N, sinh năm 1974; bản thân chưa có vợ; tiền án: không, tiền sự: Ngày 23/4/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố T Đ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện P. Nhân thân: Ngày 17/7/2015 Tòa án nhân dân quận G áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm giáo dục lao động bảo trợ xã hội P V đến ngày 5/9/2016 chấp hành xong. Ngày 25/11/2016, bị Ủy ban nhân dân phường M, quận G áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở xã hội N. Ngày 29/12/2016, Ủy ban nhân dân Phường M, quận G ra Quyết định hủy Quyết định đưa người nghiện ma túy vào cơ sở N đối với B. Tạm giam : 12/11/2021 (Có mặt).

Bị hại: Anh Lê Anh Th, sinh năm 1991; địa chỉ đường P, Phường B, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Phước Tr, sinh năm 1990; địa chỉ: đường N, Phường B, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

Bà Nguyễn Thị T, địa chỉ cư xá B, Phường M, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh ( Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 12 giờ, ngày 04/11/2020, Nguyễn Thanh B ngồi chơi internet trên đường L, quận G thì T (chưa rõ nhân thân, lai lịch, là bạn quen biết ngoài xã hội với B) đến chơi cùng. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, T chở B đi ăn, sau đó đi uống cà phê trên đường N, quận G. Trong lúc uống cà phê thì B nói với T là “không có tiền tiêu xài”, T mới rủ B đi ăn trộm bằng cách vào tiệm internet nào đó chơi, quan sát trong bãi xe có xe nào giá trị mà sơ hở sẽ ra tay trộm thì B đồng ý. B chở T bằng xe Attila biển số 52U2-8961 của T đi lòng vòng tìm tiệm internet để vào. Đến 17 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến tiệm internet 269 địa chỉ: đường P, Phường M, quận G thì T thấy và chỉ cho B chạy vào. T kêu B đi lên trên chơi nét còn T ở trong bãi tìm xe, sau đó T đi lên kêu B xuống trộm xe Winner biển số: 74H1-163.28 (xe của Anh Lê Anh Th là khách chơi game gửi tại tiệm nét trên) mà T đã bẻ khóa để sẵn. B xuống thực hiện trộm xe nhưng không nổ máy xe được, B đi ra phía trước kêu T vào bẻ khóa lại, T vào bẻ khóa xong đi ra, sau đó B vào trộm xe, lợi dụng lúc nhân viên giữ xe tên Đ sơ hở, B trộm xe và tẩu thoát ra ngã ba đường P. Sau khi cả hai trộm được xe xong thì B và T về lại quán cà phê trên đường L Thọ. Sau đó, T mang xe vừa trộm được đi bán. T chia cho B 600.000 đồng từ việc trộm xe. Đến tối cùng ngày, T chuyển vào ví Momo cho B số tiền 600.000 đồng tiếp từ việc bán xe trộm được, B đã tiêu xài cá nhân hết.

Sau khi bị mất trộm xe, đến ngày 07/12/2020, Anh Lê Anh Th đến trình báo tại Công an Phường M, quận G. Quy truy xét, xác định đối tượng thực hiện hành vi trộm cắp xe là Nguyễn Thanh B, sinh năm 1995, thường trú: xã P, huyện D, tỉnh T, đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện P.

Đến ngày 12/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp thực hiện Lệnh bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Thanh B tại Cơ sở cai nghiện P. Tại Cơ quan điều traB nhận tội và khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng của vụ án: Một chiếc xe gắn máy hiệu Honda Winner BKS:

74H1 – 163.28 (chưa thu hồi được). Qua xác minh, xe gắn máy trên do anh Lê Văn Th, nơi cư trú: Đồn biên phòng Cửa khẩu quốc tế L B, huyện H, tỉnh Q đứng tên chủ sở hữu hộ cho em ruột là Lê Anh Th. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 116/KL-HĐĐGTS ngày 20/4/2021 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp kết luận xe gắn máy trên có giá 24.233.333 (Hai mươi bốn triệu hai trăm ba mươi ba nghìn ba trăm ba mươi ba) đồng tại thời điểm mất trộm.

Tại bản cáo trạng số 40/CT-VKS, ngày 14/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Nguyễn Thanh B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B từ 01 năm 6 tháng đến 02 năm tù. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Nguyễn Thanh B đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

[3] Giữa ban ngày, lợi dụng sự sơ hở của bị hại, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút lấy trộm chiếc xe gắn máy hiệu Honda Winner biển số 74H1-163.289 trị giá 24.233.333 (Hai mươi bốn triệu hai trăm ba mươi ba ngàn ba trăm ba mươi ba) đồng. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Nguyễn Thanh B đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017.

Hành vi của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, nguy hiểm cho xã hội, tác động xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu và có một tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng không chịu ăn năn hối cải lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài nhằm giúp cho bị cáo có điều kiện học tập cải tạo lại mình sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác.

[4] Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Tại phiên tòa hôm nay Anh Lê Anh Th vắng mặt, nhưng qua hồ sơ thể hiện anh đã được bồi thường giá trị tài sản bị mất hiện không có thắc mắc hay khiếu nại gì nên tại phiên tòa hôm nay Hội đồng xét xử không đưa ra xem xét lại.

Anh Nguyễn Phước Tr là chủ tiệm Internet yêu cầu bị cáo trả lại số tiền là 20.000.000 đồng mà anh đã bồi thường cho Anh Lê Anh Th. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của Anh Tr, xét đây là sự thỏa thuận không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Đối với số tiền thu lợi bất chính 1.200.000 đồng do bị cáo phải bồi thường cho Anh Tr số tiền đã chiếm đoạt chiếc xe nên Hội đồng xét xử không buộc bị cáo phải nộp lại.

Đối với một chiếc xe gắn máy đã hư hỏng hiệu Atila BKS: 52U2 – 8961; số máy: VMEM9B404645, số khung VMETCJ113 ME404645 là phương tiện bị cáo và Tý để lại tiệm Internet sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Qua xác minh, xe gắn máy trên do chị Nguyễn Thị T, nơi cư trú: Cư Xá B , phường M, quận M đứng tên chủ sở hữu. Xác minh tại địa chỉ trên không có ai tên Nguyễn Thị T thực tế cư ngụ. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Hội đồng xét thấy đã quá thời hạn đăng trên thông tin đại chúng mà không có ai đến làm việc và là phương tiện bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[7] Đối với đối tượng tên T cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với bị cáo hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch khi nào xác định được sẽ xử lý sau.

[ 8] Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

[9] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh B phạm tội “Trộm cắp Tài sản”;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh B (Đ) 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 12/11/2021.

Áp dụng Điều 46, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017; Điều 106 của của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước một xe gắn máy hai bánh Attila biển số 52U2-8961, số máy VMEM9B404645, số khung VMETCJ113ME404645.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 154/PNK ngày 02/11/2021 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an quận Gò Vấp).

Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017;

Buộc bị cáo phải bồi thường cho Anh Nguyễn Phước Tr số tiền 20.000.000 (Hai mươi triệu) đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Áp dụng Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015. Kể từ khi Anh Tr có đơn yêu cầu thi hành án, bị cáo chưa thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng, bị cáo còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 1.000.000 (Một triệu) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 54/2022/HS-ST

Số hiệu:54/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về