Bản án về tội trộm cắp tài sản số 45/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA – TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 45/2022/HS-ST NGÀY 16/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 16 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2022/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

1.Họ và tên: Trần Văn Th; Sinh năm 1987 Tên gọi khác: không; Giới tính: Nam.

Nơi cư trú: tổ dân phố S, thị trấn Th, huyện H, tỉnh Bắc Giang;

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hoá lớp 7/12; Nghề nghiệp: Tự do;

Con ông: Trần Văn T, sinh năm 1958; Con bà: Đặng Thị Th, sinh năm 1960; Vợ: La Thị Th, sinh năm 1988 Bị cáo có 03 con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2018. Gia đình có 02 anh em, bị can là con thứ nhất;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 18/02/2022 đến ngày 24/02/2022, được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cứ trú. Có mặt tại phiên tòa

2. Người bị hại:

Chị Dương Thị Th, sinh năm 1984 ( vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ dân phố Văn Tự, thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang 3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

-Ông Trần Văn T, sinh năm 1958 (vắng mặt) Nơi cứ trú: tổ dân phố S, thị trấn Th, huyện H, tỉnh Bắc Giang;

- Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1984 (vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ dân phố S, thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang

-Anh Vũ Văn Đ, sinh năm 1994 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn S, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang

-Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1994 (vắng mặt) Nơi cư trú: Thôn Quế S, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa. 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Khoảng 15 giờ ngày 16/02/2022, Trần Văn Th, sinh năm 1987 ở tổ dân phố S, thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98D1-072.44 đến quán cắt tóc gội đầu “Dương Thoa” của chị Dương Thị Th, sinh năm 1984 ở tổ dân phố Văn Tự, thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang để gội đầu. Sau khi gội đầu xong, Thi trả tiền cho chị Thoa và ra bàn uống nước ngồi thì thấy trên mặt quầy cạnh bàn uống nước có để 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V20 màu xám, phần ốp nhựa bên ngoài trong suốt nên đã nảy sinh ý định trộm cắp. Lợi dụng lúc chị Thoa và các nhân viên đang gội đầu cho khách, không ai để ý đến mình nên Thi đã lấy chiếc điện thoại di động trên mặt quầy, dùng tăm tre ở bàn uống nước tháo sim điện thoại ra để ở giá đỡ dưới gầm bàn rồi đút chiếc điện thoại vào túi quần và đi về. Khi về đến nhà, Thi mở điện thoại ra kiểm tra thì thấy trong ốp mặt sau điện thoại có tờ tiền mệnh giá 50.000đồng. Do điện thoại của chị Thoa cài mật khẩu nên khoảng 17 giờ cùng ngày, Thi nhờ anh Hoàng Văn D, sinh năm 1994 ở thôn Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang đưa đến cửa hàng điện thoại di động “Anh Đức Mobile” của anh Vũ Văn Đ, sinh năm 1994 ở thôn S, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang để nhờ anh Đức phá mật khẩu. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Thi một mình quay lại quán “Anh Đức Mobile” thì được anh Đức đưa lại cho chiếc điện thoại đã được phá mật khẩu, Thi trả cho anh Đức 150.000 đồng tiền công rồi mang điện thoại về nhà.

Ngày 17/02/2022, chị Thoa có đơn trình báo Công an thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang về việc bị mất trộm chiếc điện thoại. Do biết hành vi trộm cắp của mình bị phát hiện nên khoảng 16 giờ ngày 17/02/2022, Thi đến nhà chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1984 ở tổ dân phố S, thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang nhờ chị Luận đem trả chiếc điện thoại cho chị Thoa; ngay sau đó, chị Nguyễn Thị L đã giao nộp chiếc điện thoại cho Công an thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa.

Tại Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐG ngày 23/02/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Hiệp Hòa kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V20 màu xám đen có giá 3.000.000 đồng. Chiếc ốp mặt sau của điện thoại bằng nhựa dẻo màu trong suốt có giá 5.000 đồng. Tổng giá trị các tài sản: 3.005.000 đồng.

Ngày 18/02/2022, Trần Văn Th đến Công an thị trấn Th đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình, đồng thời giao nộp 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM Angel, biển kiểm soát 98D1-072.44; 01 áo khoác phao có mũ màu đỏ; 01 quần dài vải màu đen. Ngày 02/4/2022, Thi giao nộp số tiền 50.000đồng.

Đối với anh Hoàng Văn D là người đưa Thi đến quán điện thoại di động Anh Đức Mobile để phá mật khẩu điện thoại, anh Vũ Văn Đ là người giúp Thi phá mật khẩu điện thoại. Anh Dũng và anh Đức đều không biết chiếc điện thoại do Thi trộm cắp mà có nên không phạm tội.

Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 chiếc điện thoại di động VIVO V20 màu xám đen, 01 chiếc ốp mặt sau điện thoại bằng nhựa dẻo màu trong suốt và số tiền 50.000 đồng là tài sản của chị Dương Thị Th. Ngày 07/4/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại số tài sản trên cho chị Thoa.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM Angel, biển kiểm soát 98D1-072.44, qua xác minh là tài sản của ông Trần Văn T (bố đẻ của Thi) cho Thi mượn, ông Tẩm không biết Thi sử dụng chiếc xe mô tô của mình đi đến quán của chị Thoa sau đó trộm cắp tài sản. Ngày 07/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe này cho ông Tẩm.

Đối với 01 chiếc áo khoác phao có mũ màu đỏ và 01 chiếc quần dài vải màu đen là quần áo Thi mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, các trang phục này hiện nay Cơ quan điều tra đang tạm giữ.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Thoa đã nhận lại các tài sản bị trộm cắp và không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự đối với Thi.

* Tại Bản cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 26/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa truy tố bị cáo Trần Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

* Tại phiên tòa:

Bị cáo thừa nhận về hành vi phạm tội của mình như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa trình bày lời luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử:

-Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 BLHS xử phạt bị cáo từ 7 đến 9 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là từ 14 tháng đến 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 16/5/2022. Giao bị cáo Thi cho UBND thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Hình phạt bổ sung: Không có

- Về xử lý vật chứng: Tịch thu đối với 01 chiếc áo khoác phao có mũ màu đỏ và 01 chiếc quần dài vải màu đen là quần áo Thi mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, do không còn giá trị.

- Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội, bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hiệp Hòa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Thoa, ông Tẩm, chị Luận, anh Đức, anh Dũng vắng mặt, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa. Tuy nhiên, tại giai đoạn điều tra và truy tố họ đã có lời khai, nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người trên là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292; Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh: Lời khai của bị cáo Trần Văn Th tại phiên tòa hôm nay phù hợp với diễn biến hành vi phạm tội, lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ, kết quả định giá và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 16 giờ ngày 16/02/2022, tại quán cắt tóc gội đầu “Dương Thoa” của chị Dương Thị Th, sinh năm 1984 ở tổ dân phố Văn Tự, thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Bị cáo Thi đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V20, 01 chiếc ốp mặt sau của điện thoại và số tiền 50.000 đồng của chị Thoa. Tổng giá trị tài sản bị cáo Thi trộm cắp là 3.055.000 đồng.

Bị cáo Trần Văn Th là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, lợi dụng sơ hở của người khác đã có hành vi lén lút để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Hành vi nêu trên của bị cáo Thi đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Bắc Giang truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo đã có hành vi lén lút để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản của người khác, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra còn gây mất trật tự trị an xã hội, làm dao động trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần có hình phạt phù hợp để nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo Thi đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải, đầu thú. Bị cáo đã tự nguyện trả lại tài sản cho bị hại. Nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[7] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

Từ những phân tích trên, đánh giá về vai trò, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo và nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo Thi lần đầu phạm tội, có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, ngoài lần phạm tội này bị cáo không còn lần phạm tội nào khác, bị cáo đã tự nguyện trả lại tài sản cho bị hại, sau khi phạm tội đã đầu thú, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử, xét thấy cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt và cũng thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, phù hợp với quy định tại Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật hình sự về án treo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Chị Thoa đã lấy lại tài sản và không có ý kiến gì, nên HĐXX không xem xét.

[9] Về vật chứng của vụ án:

-Đối với 01 chiếc điện thoại di động VIVO V20 màu xám đen, 01 chiếc ốp mặt sau điện thoại bằng nhựa dẻo màu trong suốt và số tiền 50.000 đồng là tài sản của chị Dương Thị Th. Ngày 07/4/2022, Cơ quan điều tra đã trả lại số tài sản trên cho chị Thoa. Chị Thoa đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì, nên HĐXX không xem xét.

-Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM Angel, biển kiểm soát 98D1- 072.44, qua xác minh là tài sản của ông Trần Văn T (bố đẻ của Thi) cho Thi mượn, ông Tẩm không biết Thi sử dụng chiếc xe mô tô của mình đi đến quán của chị Thoa sau đó trộm cắp tài sản. Ngày 07/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe này cho ông Tẩm. Ông Tẩm đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì, nên HĐXX không xem xét.

-Đối với 01 chiếc áo khoác phao có mũ màu đỏ và 01 chiếc quần dài vải màu đen là quần áo Thi mặc khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tại phiên tòa bị cáo không xin lấy lại, nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Về án phí:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và quy định tại Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016;

[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Người bị hại; Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan có quyền kháng cáo theo Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

1.Về trách nhiệm hình sự:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 - Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Trần Văn Th 08 (tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách là 16 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 16/5/2022. Giao bị cáo Trần Văn Th cho UBND thị trấn Th, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Trần Văn Th thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc áo khoác phao có mũ màu đỏ và 01 chiếc quần dài vải màu đen có gắn mác nhãn hiệu DENIM.

3.Về án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Buộc bị cáo Trần Văn Th phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4.Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được (hoặc niêm yết) bản án.

5. Về hướng dẫn thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cường chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a,7b và 9 của Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 45/2022/HS-ST

Số hiệu:45/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về