Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 34/2022/HS-PT NGÀY 21/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 33/2022/HSPT ngày 02 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Thị N, do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh.

Bị cáo kháng cáo:

Nguyễn Thị N; sinh ngày: 24/10/1996; nơi sinh và nơi cư trú: Thôn H, xã P, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu C (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; chồng con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” kể từ ngày 11/9/2021 đến nay. Có mặt.

 Ngoài ra trong vụ án còn có bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào cuối tháng 7 năm 2021, Nguyễn Thị N được một người phụ nữ rủ rê tham gia đầu tư tại sàn tiền ảo “Remitex.net”. Quá trình đầu tư tiền ảo, N bị thua lỗ nên phải vay mượn người thân và bạn bè để tiếp tục mua tiền ảo nhưng vẫn tiếp tục thua lỗ. Không thể vay mượn thêm nên bị cáo đã thực hiện việc trộm cắp số tiền mà mẹ mình (bà Nguyễn Thị H) đang cất giữ tại nhà, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 03/9/2021, lợi dụng không có ai ở nhà, Nguyễn Thị N vào phòng ngủ của bà H lục tìm tiền và trộm được số tiền 45.000.000 đồng, đều có mệnh giá 500.000 đồng. Sau đó, N đưa 40.000.000 đồng nhờ chị Nguyễn Thị H chuyển vào tài khoản ngân hàng của N. Chị H dùng tài khoản ngân hàng của mình chuyển vào tài khoản ngân hàng của N hai lần: lần thứ nhất chuyển 20.000.000 đồng, lần thứ hai chuyển 20.000.000 đồng và lấy 65.000 đồng phí chuyển tiền. Sau đó, Nguyễn Thị N đã sử dụng tiền trong tài khoản ngân hàng để chơi tiền ảo nhưng bị thua hết. Số tiền mặt còn lại chưa chuyển vào tài khoản, N đã chi tiêu cá nhân hết.

Lần thứ hai: Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 08/9/2021, lợi dụng không có ai ở nhà, Nguyễn Thị N tiếp tục vào phòng ngủ của bà H lục tìm tiền và trộm được số tiền 40.000.000 đồng, đều là tiền mệnh giá 500.000 đồng. Số tiền này là của chị gái N (chị Nguyễn Thị N) gửi cho bà Nguyễn Thị H cất giữ. Sau đó, N đưa cho chị Nguyễn Thị X 17.500.000 đồng nhờ chị X chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng của mình. Chị X giữ lại 40.000 đồng phí giao dịch, dùng tài khoản ngân hàng của chồng (tên Nguyễn Hữu T) do chị X quản lý chuyển vào tài khoản ngân hàng của Nguyệt 17.460.000 đồng. Đến khoảng 15 giờ 10 phút cùng ngày, Nguyệt đưa cho chị Nguyễn Thị H 24.500.000 đồng nhờ chuyển vào tài khoản ngân hàng. Chị H chuyển vào tài khoản của Nguyệt 24.465.000 đồng, giữ lại 35.000 đồng phí giao dịch. Nguyệt đã sử dụng tiền có trong tài khoản ngân hàng để chơi tiền ảo và bị thua hết.

Đến ngày 09/9/2021, bà Nguyễn Thị H phát hiện bị mất trộm nên trình báo cơ quan chức năng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, tiến hành các biện pháp điều tra. Biết không thể che dấu nên Nguyễn Thị N đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Ngày 16/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C ban hành bản kết luận điều tra số 46/KLĐT, đề nghị truy tố Nguyễn Thị N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Trong giai đoạn điều tra, bị cáo đã thực hiện việc bồi thường cho chị Nguyễn Thị N, còn bà Nguyễn Thị H không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Với hành vi phạm tội trên, tại bản án số 06/2022/HS-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh đã Quyết định:

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; tiết thứ nhất, tiết thứ hai điểm s, điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54;

Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N: 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn tù kể từ ngày bị cáo đi thi hành án.

Án sơ thẩm còn tuyên về xứ lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/01/2022 bị cáo Nguyễn Thị N có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được cải tạo không giam giữ tại địa phương.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị N vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh sau khi phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị N, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 24/01/2022 của Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản án sơ thẩm và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó đủ cơ sở kết luận: Vào các ngày 03/9/2021 và 08/9/2021, Nguyễn Thị N lợi dụng sơ hở, lén lút trộm cắp 45.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị H và 40.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị N (số tiền này đều do bà H cất giữ tại tủ đồ trong phòng ngủ của mình tại nhà ở thôn H, xã P, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh). Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị N, Hội đồng xét xử nhận định: Bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật nhưng do lòng tham, dẫn đến xâm phạm quyền sở hữu tài sản. Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp được pháp luật bảo vệ, xâm hại đến trật tự quản lý xã hội, nên cần được xử lý nghiêm.

Quá trình xét xử cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện khắc phục hậu quả, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và đã áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo mức án 15 tháng tù, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Vì vậy, mức hình phạt 15 (Mười lăm) tháng tù mà cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp. Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị N.

[3] Đối với quan điểm của Kiểm sát viên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh là đã xem xét toàn diện tính chất của vụ án, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Căn cứ vào Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị N. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 24/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Hà Tĩnh.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173; tiết thứ nhất, tiết thứ hai điểm s, điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự, Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành bản án.

2 . Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Thị N phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 34/2022/HS-PT

Số hiệu:34/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về