Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN GIUỘC, TỈNH LONG AN

BN ÁN 31/2023/HS-ST NGÀY 21/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 3 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần giuộc, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 24/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2023/QĐXXST-HS, ngày 07 tháng 3 năm 2023, đối với bị cáo:

Họ và tên Nguyễn Chí T, sinh năm: 2003.

Tên gọi khác: Sún.

Nơi thường trú: 47/1 Nguyễn Trung Trực, Khu phố 8, thị trấn BL, huyện BL, tỉnh L; Trình độ học vấn: 05/12; Nghề nghiệp: không; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Chí H và bà Đinh Duy N; bản thân chưa có vợ, con; Tiền án: Bản án số 10/2022/HSST ngày 25/01/2022, bị Tòa án nhân dân huyện BL, tỉnh L xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 01/11/2022; Tiền sự: Ngày 25/12/2022, bị Trưởng Công an thị trấn BL, huyện BL, tỉnh L ra Quyết định số 70/QĐ–XPHC về việc xử phạt vi phạm hành chính, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, với số tiền 1.500.000 đồng, đã chấp hành xong; Về nhân thân: Ngày 09/6/2020, bị Tòa án nhân dân huyện BL, tỉnh L, xử phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 21/7/2020. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 09/01/2023 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Nguyễn Ng H, sinh năm: 1997 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Vĩnh Phước, xã PL, huyện CG, tỉnh L.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Thành Anh Ph, sinh năm: 1972 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Phước Lý, xã PL, huyện CG, tỉnh L.

Người làm chứng:

1/ Phạm Thành Anh M, sinh năm: 1981 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Vĩnh Phước, xã PL, huyện CG, tỉnh L.

2/ Bùi Nhân A, sinh năm: 1970 (vắng mặt).

Cư trú: ấp Vĩnh Phước, xã PL, huyện CG, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 05/01/2023, Nguyễn Chí T đang ở nhà thì có bạn tên Ng (không rõ họ tên, địa chỉ) đến rủ đi chơi. Ng điều khiển xe mô tô không rõ biển số chở thành đi đến khu vực Cảng Bourbon, thị trấn BL, huyện BL để rủ thêm bạn tên Bự (không rõ họ tên, địa chỉ) cùng đi. Sau đó, Ng điều khiển xe mô tô trên chở Bự ngồi giữa, thành ngồi sau cùng đi đến địa bàn huyện CG. Đến khoảng 08 giờ 45 phút, cùng ngày, khi đến đoạn đường tỉnh lộ 835B thuộc ấp Vĩnh Phước, xã PL, huyện CG thì Ng phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Dream, biển số 62-566X của anh Nguyễn Ng H đang đậu cặp lề đường phía trước nhà, trên xe có gắn sẵn chìa khóa nên Ng kêu thành “Bụp đi” rồi quay đầu xe lại đậu cách xe mô tô biển số 62-566X khoảng 05-06m, thành hiểu ý Ng kêu mình vô lấy trộm xe mô tô trên nên bước xuống xe, còn Ng chở Bự qua bên đường đối diện để chờ. thành đi bộ tiếp cận xe mô tô biển số 62-566X, dẫn xe khỏi vị trí ban đầu khoảng 03 m, khi chuẩn bị leo lên xe đề máy chạy tẩu thoát thì bị người dân phát hiện truy hô, thành bỏ lại xe chạy bộ trên đường tỉnh lộ 835B hướng về Gò Đen thì không thấy Ng và Bự đâu, do có nhiều người dân truy đuổi nên thành chạy vào đám cỏ sậy. Lúc này, người dân vẫn tiếp tục truy đuổi nên thành lấy từ trong túi quần ra 01 con dao thái lan, cán bọc nhựa màu vàng, lưỡi bằng kim loại màu bạc, mũi nhọn cầm trên tay phải nhằm hù dọa người dân không đuổi theo nữa và tiếp tục lẫn trốn trong đám cỏ sậy. Đến khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, thành từ đám cỏ sậy đi ra đường tỉnh lộ 835B thì bị người dân phát hiện bắt giữ, trình báo cơ quan Công an. Tại cơ quan Công an, thành đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Riêng Ng và Bự đã tẩu thoát.

Tại Kết luận định giá tài sản số 03/KL-HĐĐGTS ngày 06/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện CG, kết luận: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Dream, màu nho, biển số 62-566X, có giá trị là 5.333.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKSCG, ngày 27/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Chí T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

Về tang vật: đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 (một) dao thái lan, cán bọc nhựa màu vàng dài 10cm, lưỡi bằng kim loại màu bạc dài 11,5cm, rộng 1,5cm, mũi nhọn. Đối với 01 (một) xe mô tô biển số 62-566X và 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 62-566X đã hoàn trả cho anh H, là phù hợp.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Ng H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, hiện không yêu cầu, nên không xem xét.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo trong lời nói sau cùng xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện CG, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện CG, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 08 giờ 45 phút, ngày 05/01/2023, tại đường tỉnh lộ 835B thuộc địa bàn ấp Vĩnh Phước, xã PL, huyện CG, bị cáo thành lén lút thực hiện hành vi lấy trộm 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Dream, biển số 62-566X của anh Nguyễn Ng H, theo Kết luận định giá tài sản số 03/KL-HĐĐGTS, ngày 06/01/2023 kết luận giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 5.333.000 đồng. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị trên 2.000.000 đồng và dưới 50.000.000 đồng, nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[4] Xét về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: theo Bản án số: 10/2022/HSST ngày 25/01/2022 của Tòa án nhân dân huyện BL, tỉnh L xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt vào ngày 01/11/2022, chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Xét về tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: bị cáo phạm tội nhưng thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét về nhân thân: bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: có 01 (một) tiền sự, theo Quyết định số 70/QĐ–XPHC, ngày 25/12/2022, của Trưởng Công an thị trấn BL, huyện BL, tỉnh L xử phạt vi phạm hành chính, về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, với số tiền 1.500.000 đồng, đã chấp hành xong và về nhân thân, ngày 09/6/2020, bị Tòa án nhân dân huyện BL, tỉnh L, xử phạt 04 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 21/7/2020.

[7] Xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có thể giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Xét thấy áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo cũng đủ răn đe, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[8] Đối với hai đối tượng tên Ng và Bự, theo bị cáo khai là đi cùng bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, nhưng do chưa xác định được nhân thân, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện CG tách ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

[9] Về tang vật: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện CG tạm giữ và hoàn trả cho anh Nguyễn Ng H 01 (một) xe mô tô biển số 62-566X và 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 62-566X, là phù hợp. Đối với 01 (một) dao thái lan, cán bọc nhựa màu vàng dài 10cm, lưỡi bằng kim loại màu bạc dài 11,5cm, rộng 1,5cm, mũi nhọn, bị cáo sử dụng để de dọa người dân khi truy đuổi, xét thấy giá trị sử dụng không lớn, nên tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, tại phiên tòa anh H vắng mặt nhưng theo hồ sơ thể hiện không yêu cầu (bút lục số 88- 89), nên không xem xét.

[11] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chí T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Chí T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. thànhời hạn tù được tính từ ngày 09/01/2023.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (21/3/2023) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự.

Về tang vật: tịch thu tiêu hủy 01 (một) dao thái lan, cán bọc nhựa màu vàng dài 10cm, lưỡi bằng kim loại màu bạc dài 11,5cm, rộng 1,5cm, mũi nhọn.

Hiện vật chứng trên Chi cục thi hành án dân sự huyện CG đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chứng số 20/QĐ-VKSTT, ngày 27/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện CG.

Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 31/2023/HS-ST

Số hiệu:31/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về